LĂNG KÍNH ĐẠI THỪA
LỜI TỰA
Gần 30 năm về trước, trong khi đang học Phật, được đọc
bản BÁO CÁO CỦA MỘT NHÀ KHOA HỌC NGHIÊN CỨU KINH PHẬT (Nhứt Cá Khoa Học Giả
Nghiên Cứu Phật Kinh Đích Báo Cáo) của kỹ sư Uông Trí Biểu, người Trung Hoa,
tôi đã xúc động. Xúc động vì sự xác tín của tôi ở nền giáo lý Phật Đà đã có
thêm được những yếu tố xác thực. Bấy giờ, khoa học đang có cái cám dỗ mãnh liệt
, cái cám dỗ của những chân lý khách quan mà trí năng của con người đã có thể
vươn tới được. Và những chân lý khách quan đó đã không khỏi cho con người cái tự
hào và mang nặng những ảo tưởng về khả năng tính của trí năng. Cũng bấy giờ Phật
giáo – ngoài những giáo lý có tính cách của một nền đạo đức thực tiễn và được
lý giải bằng ngôn ngữ phổ biến của thời đại vẫn còn đó, cả một thế giới bàng bạc
cái không khí "huyền chi hựu huyền", một cái "vạn hoa kính"
phản chiếu muôn vàn ảnh tượng như thực như hư, như có như không, mà con người
chưa thể thành đạt được sự kiến giải với một đầu óc thường nghiệm nghèo nàn và
đầy giới hạn của mình. Cuối cùng trên một số lớn phương diện và là những phương
diện rộng lớn, sâu thẳm nhất, đạo Phật gần như cũng phải kêu gọi đến sự xác tín
hơn là xác thực như hầu hết các tôn giáo từ xưa đến nay đã kêu gọi. Và điều
này, quả đã không thỏa mãn được đầu óc của con người vốn bị cám dỗ bởi khoa học.
Trong một bầu không khí như thế, sự xúc động của tôi khi đọc bản báo cáo này,
nó lớn biết bao. Bởi vì, ở đó, đạo Phật đã không còn xuất hiện như những tín lý
mà đã xuất hiện dưới những yếu tố xác thực như của khoa học. Cũng bởi vì, ở đó,
bằng vào cái nhìn đối chiếu, nó đã nói đến những đồng nhất giữa Đạo Phật và
Khoa Học để có thể cho tôi hình dung được những triển vọng tốt đẹp cho một Đạo
Phật ngày càng được khám phá sau này.
Tuy nhiên, một sự đồng nhất như thế chẳng phải là điều
rốt ráo. Nói cách khác, Đạo Phật mà được giải thích trên lập trường khoa học có
thể không sai nhưng cũng chưa hẳn là đúng – nhất là khi mà khoa học đó vẫn còn
phải bị ràng buộc ít nhiều trong những lãnh vực của thường nghiệm, hay nói theo
ngôn ngữ Phật giáo, vẫn còn bị ràng buộc trong tinh chất "chiêu cảm"
của nghiệp lực và đang còn phải mon men tìm đường mới, mong đặt bước chân vào
được những chiều kích sâu thẳm của tâm linh và vũ trụ – những chiều kích vượt
khỏi những khái niệm thông tục về vật chất, thời gian, không gian và tương quan
nhân quả một chiều. Mặt khác, khi mà nền vật lý học hiện đại đã vượt qua và đe
doạ phá hủy những định đề đã một thời ngự trị như những chân lý của Isaac
Newton và Rene Descartes thì cũng không có gì bảo đảm là những khám phá hôm nay
của nó lại không bị vượt qua và phá hủy ở ngày mai. Thành ra những tương hợp khả
hữu giữa đạo Phật và khoa học trên một số bình diện nào đó của hôm nay – ví dụ,
trong quan niệm về vật chất và khí năng, trong cái nhìn cho rằng vật chất không
phải là những sự vật ù lì và cố định : vũ trụ là một màng lưới kết dệt của những
tương quan đối thể, không còn ở trong cái thế tách rời với chủ thể v.v…. có thể
mở đường cho khoa học tìm tới với đạo Phật hơn là cho đạo Phật tìm tới với khoa
học như tìm một cơ sở nền tảng để lý giải tính cách xác thực của nó. Mặt khác nữa,
nếu ta có thể thấy hiển hiện trên những trang kinh xưa, những khái niệm mới mẻ
nhất của nền vật lý học hiện đại thì ngược lại, không phải tất cả những gì hiển
hiện trên những trang kinh xưa lại đều có trong những khái niệm của khoa học
ngày nay. Điều này thêm một lần nữa, cho phép ta nghĩ rằng những tương hợp kia
có thể mở đường cho khoa học tìm tới đạo Phật hơn là cho đạo Phật tìm tới với
khoa học. Niềm xác tín của những thế hệ tu Phật, học Phật xưa nay ở những gì mà
đức Phật giảng dạy hóa ra vẫn đem đến một sự thành đạt lớn lao hơn nhiều so với
những gì mà chúng ta gọi là xác thực đem đến cho ta. Bởi vì suy nghiệm cho
cùng, mọi xác thực cũng chỉ là xác thực trong tương ứng với nghiệp cảm, nghĩa
là vẫn còn nằm trong sự tác động của những làn sóng vô minh không ngừng lay động
tâm thức. Sự trì tụng kinh điển của Phật với một niềm tin mãnh liệt nhiều khi lại
giúp ta sống với những chiều kích sâu thẳm của tâm linh và vũ trụ hơn là sự biện
giải kinh điển với cái khát vọng và đòi hỏi sự xác thực chính là vì tính cách
giới hạn mỏng manh này của những gì được gọi là xác thực.
Niềm xúc động của tôi khi đọc bản Báo Cáo của nhà
khoa học Uông Trí Biểu ba muơi năm về trước cuối cùng đã chỉ còn là cái xúc động
nặng về mặt cảm tình tôn giáo.
Mới đây, sau một buổi đàm đạo, tôi được Cụ Nghiêm
Xuân Hồng trao cho tập bản thảo LĂNG KÍNH ĐẠI THỪA. Nói như tác giả, tập sách
này là kết quả của những tháng năm "đọc kinh", đôi khi say mê đọc
kinh và thường hay mơ màng hằng giờ trên những trang kinh xưa". Đọc xong tập
sách tôi như cũng sống lại một niềm xúc động lớn lao. Nhưng nó đã không còn là
niềm xúc động của 30 năm về trước nữa.
Khoa học dẫu vẫn còn những cám dỗ của nó đối với tâm
trí con người nhưng đã không còn giữ cái thể giá cũ. Trong khi những trang kinh
xưa thì vẫn sừng sững còn đó như tự bao giờ, và cũng như tự bao giờ, mời gọi
con người đi tới để thâm nhập, để tỉnh thức, bừng con mắt Huệ trước màn lưới vô
minh, nghi hoặc dày đặc và để hứng khởi được cái Tâm Đại Bi giữa những biển động
quay cuồng điên đảo của cuộc sống.
Mặc dù tự nghĩ mình vốn chẳng khác chi người cùng tử
trong kinh Pháp Hoa, trầm luân trong biển khổ nghiệp nên gia bảo có đó mà vẫn
chưa thấy được hết, miệt mài với tháng năm mà sở nguyện vẫn xa vời. Nhưng nhờ vốn
hằng ngày trân trọng những lời kinh ngọc vàng, sống trong âm hưởng của Diệu
pháp mà Đức Phật đã tuyên thuyết từ ngàn xưa nên vẫn cảm vì Pháp nhũ ân sâu mà
cố giữ lấy một lòng theo dõi di giáo. Chính với tấm lòng đó mà tôi đã xúc động
khi đọc tập bản thảo LĂNG KÍNH ĐẠI THỪA này.
Xúc động vì nghĩ đến tác giả – một nhà trí thức đã từng,
trong một thời gian dài, đem tâm trí mình đi vào những suy niệm triết học xưa
nay, nghiền ngẫm đến cả những thành tựu của khoa học để rồi cuối cùng trở về
"mơ màng trên những trang kinh xưa" của Phật. Cuộc sống vẫn đầy những
biến động, tâm thức con người vẫn thường xuyên chạm mặt với những điều bí ẩn,
nhưng khát vọng chân lý vẫn cứ là một khát vọng muôn đời. Và với khát vọng này
trong trường hợp của tác giả, Đạo Phật đã như một con đường còn lại sau cùng mở
ra thênh thang khi mà tất cả những ngã đường khác đã lâm vào chỗ bế tắc.
Xúc động cũng vì nghĩ đến tác phẩm, dù có thể không
phải đã là những kiến giải rốt ráo về kinh điển Đại Thừa Phật Giáo, điều mà
không ai có thể tự nhận là làm được trọn vẹn – nhưng ít nhiều , đã nói lên được
một phần rất lớn, hoài vọng của những thế hệ học Phật gần đây và ngày nay – những
thế hệ sinh ra và lớn lên trong một thời đại có nhiều thành tựu nhưng cũng có
nhiều đổ vỡ của nền văn minh khoa học. Hoài vọng đó sẽ thành tựu hay không và
thành tựu như thế nào là một chuyện. Nhưng điều đáng nói ở đây là, dù ít dù nhiều,
tác phẩm này cũng sẽ đóng góp vào việc mở đường cho những tâm trí đã từng bị
chi phối bởi những kiến giải của khoa học tìm tới được với Đạo Phật.
Và với những tâm trí không bị chi phối nặng nề bởi
những kiến giải của khoa học này thì điều mà tác phẩm có thể mang lại là một niềm
xác tin vững chắc hơn đối với kinh điển Đại Thừa.
Tác dụng của kinh là tăng-thượng-tâm cho chúng sanh
. Tâm đây là Bồ Đề Tâm, là Diệu Giác – Chân Tâm, là Phật Tâm. Có được một niềm
xác tin vững chắc, tác dụng của kinh cũng là điều vững chắc. Cửa ngõ vào Đạo từ
đó cũng sẽ mở ra vững chắc.
Chính với niềm xúc động đó mà tôi tưởng đến lời tán
thán của người xưa :
Vô
thượng thậm thâm vì diệu pháp
Bách
thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã
kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện
giải Như Lai chơn thiệt nghĩa.
để chân thành viết ra lời tựa này.
Los Angeles, Chùa Việt Nam,
Vu Lan năm Nhâm Tuất (1982)
THÍCH
MÃN GIÁC
LỜI DẪN
Tôi mạo muội cầm bút viết mấy trang sau đây, trước hết
là để tạ hồng ân của chư Phật, của Kinh đã soi sáng cho mình và rửa sạch những
lớp lưới Nghi trùng trùng trong tâm thức.
Sau là để gây Cơ duyên với những ai muốn phát tâm đọc
kinh, muốn nhập vào cảnh giới thâm diệu của kinh, nhưng còn vướng nhiều bởi những
tập quán nhận thức nhị biên của thế gian trí … Những vị đó, trên con đường tìm
hiểu cái bí ẩn của vũ trụ và kiếp sống, vẫn còn vướng nhiều bởi những khái niệm
của khoa học thần tượng. Và chưa nhận rõ ràng chính khoa học ngày nay cũng đã bắt
đầu phải thay đổi nhiều những tập quán suy tư trước kia, khi bước vào lĩnh cực
đại và cực vi. Xét kỹ, khoa học ngày nay đã mang một tính chất có vẻ như Huyền
Thoại và Chiều hướng mới này mặc nhiên đã ngả theo những lời dạy trong trang
kinh xưa.
Sau nữa là để kết cơ duyên với những ai, do những cội
can lành đã trồng từ nhiều kiếp trong vô thức, nên nay đã có sẵn Tín căn sâu chắc,
nhưng còn bỡ ngỡ trước rừng rậm Danh từ của kinh sách, và chưa biết quyết định
cách nào để lý giải rõ ràng và vững chãi niềm tín giải của mình.
Thực ra thì trong kiếp giảm này, không có mấy ai có
lòng thành thực lại dám nói rằng mình hiểu được kinh sách. Thực ra, chỉ có những
bậc tu chứng khá cao rồi, mới hiểu được một phần lời Kinh xưa. Và chỉ có Phật với
Phật mới hiểu được chọn vẹn được lời kinh thôi.
Vì sao?
Vì những lời kinh xưa thường như hư như thực, nhưng tuy
như hư như thực, chân lý của kinh vẫn là một thứ Thiên La Địa Võng bao trùm các
cõi và pháp giới không ngàn mé … Và cũng vì những trang kinh Đại Thừa thường
khi chỉ mô tả những cảnh giới siêu xuất bất tư nghì của những cơn Tam-Muội rất
sâu, mà kẻ Phàm phu chúng ta khó thể lãnh hội nổi … Bởi thế, mỗi khi nói những
bộ kinh lớn, chư Phật thường hay nhập những cơn Định rất sâu, rồi mới nói Kinh.
Kẻ viết mấy dòng này, tự biết mình nhiều phiền não
chất ngất, vô minh dầy đặc, và đối với ngưỡng cửa của những cơn Tam-Muội nhỏ
nhoi, vẫn lảng vảng đứng xa hàng ngàn dặm … Chỉ được cái Hạnh ngộ, không biết
do một chút căn lành nào lây lất rớt lại từ kiếp nào, nên thích đọc kinh, đôi
khi say mê đọc kinh, và thường hay mơ màng hàng giờ trên những trang kinh xưa …
Nên tập sách nhỏ này chỉ là kết quả của sự suy tư mơ
màng ấy. Cố gắng viết ra, chỉ là mong sự góp ý và gợi ý với những ai muốn phát
tâm đọc kinh … Nếu có những lời nào lỗ mỗ hoặc sai lạc với ý kinh, thì kẻ viết
cũng xin được sám hối và miễn thứ.
Nếu có gặt hái được một chút công đức nào, thì cũng
xin hồi hướng cho cái pháp giới vừa bao la vừa nhỏ nhiệm này … Để cầu xin cho toàn thể pháp giới đều vãng
sanh lạc Quốc, nơi xứ sở của những quang minh vô lượng …
Comments
Post a Comment