THẾ NÀO LÀ TÁNH CỦA NGHIỆP ?

 

( What is the essence of karmic offenses? )

 

Kinh văn:

 

Vân chánh tánh

 


A Nan như th chúng sanh nhp tam ma đa yếu tiên nghiêm trì thanh tnh gii lut

 

( Thế nào là tánh của nghiệp ?

 

A Nan, chúng sinh muốn nhập vào Tam-ma-địa, chủ yếu trước tiên là phải nghiêm trì giới luật cho thật thanh tịnh.)

 

 

Giảng giải:

 

Giai đoạn tiệm thứ đầu tiên là dứt trừ trợ nhân, chẳng hạn như thích ĂN UỐNG: hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu, rượu, thịt…. Giai đoạn thứ hai  là tánh của nghiệp. 


Thế nào là tánh của nghiệp ? A Nan, chúng sinh muốn nhập vào Tam-ma-địa, chủ yếu trước tiên là phải nghiêm trì giới luật cho thật thanh tịnh. 


“Tánh của nghiệp” tức là do NGHIỆP THỨC PHÂN BIỆT sanh khởi . Khi nghiêm trì giới luật, thì chuyển THỨC  thành TRÍ . “Chủ yếu” là phải bền lâu, lấy giới luật làm THẦY để tu hành.


Bất cứ điều gì quý vị đã làm trước khi thọ giới đều không kể là phạm giới, vì quý vị chưa thọ giới, nhưng PHẠM TỘI cho việc làm của mình. Chưa thọ giới thì không phải là phạm giới. Nhưng một khi mình đã thọ giới rồi thì dứt khoát không bao giờ cố ý sai phạm. 


Trước khi thọ giới, quý vị có thể thích LÀM những gì theo Ý MÌNH, nhưng khi đã thọ giới thì chúng ta không nên phạm phải những sai lầm như trước đó.

 

 

Sutra:

What is the essence of karmic offenses? Ananda, beings who want to enter samadhi must first firmly uphold the pure precepts.

Commentary:


The first gradual stage consists of getting rid of the aiding causes, which are eating meat and the like. The second gradual stage concerns the essence of karmic offenses. What is the essence of karmic offenses? Ananda, beings who want to enter samadhi must first firmly uphold the pure precepts. The "essence of karmic offenses" refers to the workings of the karmic consciousness. The karmic consciousness must be transformed, and that is done by holding the precepts. "Firmly uphold" means one is firm with oneself. One is not the least bit casual or sloppy. One relies on the precepts in cultivation.

Anything you did before receiving the precepts does not count as a violation of them, because you were in ignorance. If one doesn't know one is committing an offense, then one hasn't committed one. But once you receive the precepts, you can't perpetuate your offenses. Before you heard about the precepts, you may have enjoyed indulging in things which are not in accord with the rules. But once you learn about the precepts, you should receive them and then not indulge in such activities any more.


Kinh văn:

 

Vĩnh đoạn dâm tâm bất xan tửu nhục hỏa tịnh thực đạm sanh khí A Nan thị tu hành nhân nhược bất đoạn dâm cập dữ sát sanh xuất tam giới giả hữu thị xứ

 

( Đoạn hẳn TÂM dâm, chẳng dùng rượu thịt, chỉ ăn thức ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống. A-Nan, người tu hành đó, nếu không đoạn DÂM dục và SÁT sinh mà ra khỏi được ba cõi thì không thể nào có lẽ như vậy. )

 

Giảng giải:

 

 

Đoạn hẳn TÂM dâm.

 

Qúy-vị  phải đoạn trừ những Ý-NGHĨ dâm dục trong tâm.  “TÂM dâm” là yêu thích và ham muốn các điều sai quấy, nó xuất phát từ vô minh. Lòng yêu thương KHÔNG bắt nguồn từ vô minh là loại tình cảm như của người chồng, người vợ, hoặc người con... – đây là tình cảm xuất phát từ BỔN PHẬN trong NHÂN LUÂN  muốn người khác được vui vẻ, hoàn toàn không có tính ích kỷ, vui theo THAM DỤC.

 

Họ phải chẳng dùng rượu thịt.

 

Họ chỉ dùng các thức chay trong sạch. Cái hại của RƯỢU, THỊT là gì? Rượu và các chất cồn thường làm tâm tính hỗn loạn. Khi dùng chất cồn, quý vị sẽ không tập trung tinh thần được, nhất là khi chúng ta ưa thích uống thức này.

 

Trước đây, tôi có kể qua câu chuyện một người dùng chất say mà phạm các giới. Một người nếu không uống rượu, tâm trí anh ta sẽ không hỗn loạn, không có những hành động điên đảo. Một lý do khác nữa là mùi rượu, cồn, có tính hấp dẫn người, quỷ, nhưng các Bồ tát, Thiện thần đều lánh xa. Họ không thích mùi hăng nồng như thế. Bồ-tát và các A-la-hán xem mùi rượu cũng như chúng ta đối với mùi nước tiểu vậy.

 

Đối với họ đó là mùi hôi hám rất khó chịu. Con người không thích gần gũi nhà vệ sinh, hầm phân, cống, rãnh, thế nhưng họ lại dành nhiều thời gian thưởng thức các món ăn rất hôi hám, khó chịu. Hơn nữa, rượu và thịt rất kích dục. Người tu hành chắc chắn sẽ lánh xa các thức ăn uống ấy.

 

Họ chỉ ăn thức ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống.

 

Các thức ăn phải được nấu chín, ngay cả rau cải cũng phải vậy, vì ăn rau sống dễ sinh lòng nóng giận.

 

A Nan, người tu hành đó, nếu không đoạn dâm dục và sát sinh mà ra khỏi được ba cõi thì không thể nào có lẽ như vậy.

 

Dâm dục” ở đây là nói người XUẤT-GIA, còn người TẠI-GIA thì gọi là  TÀ-DÂM, là tư tưởng bất chính đối với người học Phật. Còn lại nghĩ, DÂM-DỤC cũng có thể trở thành PHẬT, là người PHÁ KIẾN, khó mong được SÁM HỐI.

 

Sutra:

They must sever thoughts of lust, not partake of wine or meat, and eat cooked rather than raw foods. Ananda, if cultivators do not sever lust and killing, it will be impossible for them to transcend the triple realm.

Commentary:


They must sever thoughts of lust. "Lust" refers to love and desire, which are born of ignorance. Love which is not founded on ignorance, in the sense that it is loving regard for one's spouse and children, is not what is meant here. Or, if special causes and conditions arise where one wishes to help someone else, and one is not just selfishly seeking some ephemeral bliss, that too would not be considered a violation, because one's wish is to help someone else and one is basically doing something one would prefer not to do in order to help cross someone else over. It is a temporary expedient and is not a violation.

They must not partake of wine or meat. One should eat pure vegetarian food. What disadvantages are there in wine and meat? Wine and alcohol in general derange one's nature. Once you drink alcohol, you lose your concentration. And then you are likely to do just about anything. You'll be like the man in the story I told before who broke the one precept against intoxicants and subsequently violated all five.

If one refrains from drinking, one's nature will not get scattered and one's actions will not be upside down. Another reason is that the odor of wine and other alcoholic drinks, which may be considered fragrant by people and ghosts, upsets the Bodhisattvas and good spirits. They do not like the smell. Bodhisattvas and Arhats regard the smell of wine as we regard the smell of urine. To them it is rank and stinking. People don't like to be around toilets, cesspools, and sewers, but there are certain bugs, dung beetles, who spend their whole lives eating excrement in cesspools and sewers. They like it. Further, wine and meat are aphrodisiacs.

So people who cultivate the Way should not consume these things. They should eat cooked rather than raw foods. All foods should be cooked, even vegetables, before they are eaten, because almost all raw foods will increase one's anger. Ananda, if cultivators do not sever lust and killing, it will be impossible for them to transcend the triple realm. "Lust" refers to deviant, improper sexual desire. It is absolutely unprincipled to think that a lustful person could become a Buddha.


Kinh văn:

 

Đương quán dâm dc do như đc như kiến oán tc Tiên trì Thanh Văn  t khí bát khí chp thân bt đng hu hành B Tát thanh tnh lut nghi chp tâm bt kh


( Nếu xem sự dâm dục như là rắn độc, như thấy giặc thù. Trước hết phải giữ Tứ khí, bát khí của giới luật Thanh Văn, nắm giữ THÂN không để lay động; sau đó hành trì luật nghi thanh tịnh Bồ tát, nắm giữ TÂM không vọng khởi. )



Giảng giải:


Nếu xem sự dâm dục như là rắn độc, như thấy giặc thù.


Hết sức chú ý điều này: Sự dâm dục như loài rắn độc. Nếu để nó cắn tất sẽ mất mạng. Hãy xem dâm dục là điều rất nguy hại, không thể coi thường được. Ngay cả ý nghĩ về dâm cũng không được vọng khởi. Tại sao? Bởi vì trí tưởng tượng có sức mạnh như hổ, sói vậy. Đừng thân cận với loài thú ấy, nếu không muốn mất mạng. Hoặc hãy xem những ý nghĩ ấy như giặc loạn, như tên trộm nguy hại đến tính mạng.

 

Trước hết phải giữ Tứ khí, bát khí của giới luật Thanh Văn, nắm giữ thân không để lay động.

 

Quý vị phải giữ 4 trọng giới là tránh  tà dâm, sát sinh, trộm cướp, nói dối.  


Rồi giữ giới Thanh Văn của Tỳ kheo và Tỳ kheo Ni cũng  như vậy, để nắm giữ thân không lay động. Nhưng ở Tỳ kheo giữ Tứ khí là DÂM, SÁT, ĐẠO, VỌNGcòn Tỳ kheo Ni giữ bát khí, có thêm bốn giới:  XÚC chạm thân đàn ông , NHẬP vào phòng đàn ông nói chuyện hẹn hò, PHÚ là che giấu tội lỗi của bạn đồng tu, TÙY là theo giúp người phạm giới bị đuổi; giữ nghiêm các giới như vậy để tránh tạo thêm nghiệp.

 

Sau đó hành trì luật nghi thanh tịnh Bồ tát, nắm giữ tâm không vọng khởi. Kế đến quý vị tu học giới luật Bồ tát, thọ trì 10 giới trọng và 48 giới khinh, giữ giới cho được thanh tịnh để tâm không khởi vọng tưởng – đấy là đạo pháp quý vị phải tu tập thành tựu.

 

Sutra:

You should look upon lustful desire as upon a poisonous snake or a resentful bandit. First hold to the sound-hearer's four or eight parajikas in order to control your physical activity; then cultivate the Bodhisattva's pure regulations in order to control your mental activity.

Commentary:


You should look upon lustful desire as upon a poisonous snake or a resentful bandit. Make this contemplation: lust is like a poisonous snake. If it bites you once, you may lose your life. If one regarded lust as being as poisonous as that, one would not be able to take delight in it. Even thoughts of lustful desire would not arise. Why? Just imagine that such a thought is as violent as a tiger or wolf. It's fine if you don't encounter such animals, but if you do, you're likely to lose your life. Or look upon such thoughts as upon a rebel or a thief who bears a grudge. His resentment pushes him to the point of murder.

First hold to the sound-hearer's four or eight parajikas. You must keep the shravaka precepts against killing, stealing, lust, and lying, these apply to both bhikshus and bhikshunis; in addition, the precepts against touching, the eight matters, covering, and not following apply to bhikshunis. Keep them in order to control your physical activity. You uphold these precepts to keep from creating these kinds of karma. Then cultivate the Bodhisattva's pure regulations in order to control your mental activity. Then you cultivate the Bodhisattva precepts. You receive the ten major and forty-eight minor precepts and pay special attention to regulations. Then your mind will not give rise to thoughts of lust. You won't have such deviant thoughts. This is the path that people who cultivate must walk.


Kinh văn:

 

Cm gii thành tu tc ư thế gian vĩnh tương sanh tương sát chi nghip du kiếp bt hành tương ph ly dic ư thế gian bt hoàn 宿túc trái

 

( Cấm giới đã thành tựu, thì ở trong thế gian hẳn không còn những nghiệp sinh nhau, giết nhau. Đã không làm việc trộm cướp thì không còn phải nợ nhau, và cũng không phải trả nợ kiếp trước trong thế gian.)

 

 

Giảng giải:

 

Cấm giới đã thành tựu.

 

“Cấm” bao hàm sự giữ gìn, bảo vệ.

 

“Giới” là ngăn chặn những sự sai trái. Giới chia làm bốn phương diện:

 

1. KHAI là cho làm

2. GÍA ngăn cấm

3. TRÌ là gìn giữ

4. PHẠM là vi-phạm

 

Có khi phải “KHAI” để tránh không bị phạm giới, cho dù không muốn cũng không được. Cũng như nói THẬT, thì chúng sanh phải mất mạng. Cho nên, nói dói vì cứu chúng sinh nên không phạm giới.

 

“GÍA” bao hàm sự ngăn cấm. Người được tôn trọng là vì họ giữ gìn giới hạnh, chẳng hạn như không dùng chất say để tránh phạm giới.

 

“TRÌ” là nghiêm giữ giới đã thọ.

 

“PHẠM” là phá giới.

 

 

Có câu chuyện liên quan về giới như sau:

 

Khi Đức Thích Ca Mâu Ni còn tại thế gian, có hai vị Tỳ kheo tu hành trong núi. Ngày nọ một trong hai Tỳ kheo đi xuống núi vào làng khất thực, còn vị Tỳ kheo kia 
ở lại tìm nơi để ngủ. Thời bấy giờ tại Ấn Độ, các Tỳ kheo rất đơn giản, họ chỉ khoác áo vào mình tấm choàng, không mặc y phục bên trong. Vị Tỳ kheo này tháo tấm choàng ra và ngủ. Có thể ông ta lười, hoặc nghĩ chốn núi rừng sẽ không ai nhìn thấy, bèn quyết định chợp mắt một lúc. 


Vừa lúc ấy, có một người đàn bà đi ngang qua thấy ông Tăng đang ngủ, bà ta liền khởi Tâm dâm sờ mó thân thể, làm đánh thức vị Tăng này, nên vội vã bỏ chạy. Vì Tỳ kheo vào làng đi trở về, thấy người đàn bà đang chạy nhanh, ông tìm cách hỏi thăm và biết người đàn bà ấy đã sờ mó vị Tăng kia; Ông bèn quyết định đuổi theo để đưa bà ta đến trước Phật trình bày rõ sự việc. Khi ông theo sau, người đàn bà kia vội vã đã vấp phải tảng đá, ngã xuống núi chết.


Như vậy, một người phạm phải giới dâm, còn người kia phạm tội sát sinh. Mặc dù ông Tăng không xô đẩy người kia, nhưng nếu ông ta không đuổi theo thì bà ấy đâu có ngã chết như thế.


Hai vị Tỳ kheo trở về với Phật, thưa chuyện phạm giới của mình. Phật bảo họ đến Đại đức ƯU-BA-LY. Đại đức nghe họ thuật xong, Ngài phán một người phạm giới dâm, người kia phạm giới sát sinh, sự phạm giới ấy không thể SÁM HỐI được. Ngài bảo: “Sau này cả hai sẽ phải  ĐỌA xuống địa ngục”.


Nghe qua, hai ông Tăng khóc nức nở, và họ đi khắp nơi để tìm người cứu giúp. Cả hai tìm gặp cư sĩ Duy Ma Cật, cư sĩ hỏi tại sao khóc. Khi nghe hai người thuật lại mọi chuyện, cư sĩ tuyên bố họ tuy PHẠM TỘI, nhưng TÂM TÁNH chưa phạm giới. “Nếu hai ông SÁM HỐI”, cư sĩ nói: “Tôi xác định là hai ông KHÔNG phải đọa xuống ĐỊA NGỤC”.


Hữu nhị Tỳ-kheo phạm dâm sát,

Ba-ly huỳnh quang tăng tội kết.

Duy-ma đại sĩ đốn trừ nghi,

Do như hách nhật tiêu sương tuyết.


Bất tư nghì, giải thoát lực,

Diệu dụng Hằng sa dã vô cực.

Tứ sự cung dưỡng cảm từ lao,

Vạn lưng hoàng kim diệc tiêu đắc.


Phấn cốt toái thân vị túc thù,

Nhất cú liễu nhiên siêu bách ức.


( Chứng Đạo Ca )


Theo “KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI” thì “PHẠM SÁT-SANH” phải có đủ 4 điều kiện:


1.  NHÂN  (Tâm mình muốn giết ai đó)
  
2. DUYÊN  (Phải có người đó, phải gặp người đó thì mới giết được )

3. CÁCH THỨC (Dùng Cung tên để giết…)

4. NGHIỆP  (Người đó đã chết, thì mới thành nghiệp sát sanh)


TÓM LẠI, BẤT LUẬN DÙNG PHƯƠNG TIỆN TRỢ NHÂN NÀO HOẶC Ở TÂM, HOẶC Ở THÂN, HOẶC Ở  MIỆNG, HOẶC Ở Ý…LÀM CHO CHÚNG SANH PHẢI CHẾT, THÌ BỊ CÙNG MỘT CỘNG NGHIỆP LÀ SÁT SANH.


- Tại sao lại thế? Hai Tỳ kheo hỏi.

Cư sĩ nói – Hai Ông tuy phạm tội, nhưng không có ý phá giới, vậy không phải là phạm giới. Đây là trường hợp ngoại lệ.

 

Nghe lời giải thích, cả hai tức thì tỏ ngộ và chứng ngay quả vị. Sau đó họ cùng trở thành A-la-hán. Có nhiều cách giải thích về giới luật. Nhưng nếu như người tu chỉ chăm chú vào trường hợp ngoại lệ,  thì họ rất dễ phạm giới mà không tự biết. Chính vì vậy nên Đức Phật không nói nhiều về điều này.


Khi có người giữ giới thì ở trong thế gian hẳn không còn những nghiệp sinh nhau, giết nhau. Một người được sinh ra và bị giết chết, người đó lại tái sinh để giết lại người đã sát hại mình. Nhưng nay thì cái nghiệp sinh, sát luân lưu đã dừng lại, vì họ TRÌ GIỚI. 


Đã không làm việc trộm cướp thì không còn phải nợ nhau, và cũng không phải trả nợ kiếp trước trong thế gian. 


Việc trộm cắp không còn khi chẳng còn ai lấy trộm. “Tôi không lấy gì của ông, ông cũng chẳng lấy gì của tôi. Tôi không ăn thịt ông, ông chẳng ăn thịt tôi. Tôi không nợ ông, ông chẳng nợ tôi. Như vậy, mọi người chúng ta sẽ chẳng phải trả lại nhau điều gì”. Quý vị không còn ăn thịt, tức sẽ không phải trả nợ trong quá khứ, quý vị sẽ cắt đứt mọi quan hệ THÂN THUỘC với loài thú. Nếu không ăn thịt chúng thì cũng chẳng có liên hệ gì.



Sutra:

When the prohibitive precepts are successfully upheld, one will not create karma that leads to trading places in rebirth and to killing one another in this world. If one does not steal, one will not be indebted, and one will not have to pay back past debts in this world.

Commentary:

When the prohibitive precepts are successfully upheld. "Prohibitive" implies the practice of restraint. "Precepts" are defined as "stopping evil and counteracting wrongdoing." The precepts are divided into four aspects:

1) maintenance,
2) restraint,
3) exceptions,
4) violations.

Sometimes exceptions are made, so that you are not considered to have violated the precept even if you have acted against it. "Restraints," as already mentioned, refer to prohibitions. They are honored because to violate them would contribute to further violations, as in refraining from taking intoxicants one avoids breaking other precepts as well. "Maintenanc" means upholding the precepts and cultivating in accord with them. "Violation" refers to breaking a precept.

The following event will illustrate the aspect of exceptions. Once when the Buddha Shakyamuni was in the world, there were two bhikshus cultivating in the mountains. One day, one of the bhikshus went down the mountain to get food and left the other one sleeping. In India at that time, the bhikshus simply wore their sashes wrapped around them; they did not wear clothing underneath. This bhikshu had shed his robe and was sleeping nude. He probably was a lazy person, and with no one on the mountain to watch after him, he'd decided to take a nap.

At that time a woman happened along, and seeing the bhikshu, she was aroused and took advantage of him. Just as she was running away from the scene, the other bhikshu returned from town and saw her in flight. Upon investigation he found out that the woman had taken advantage of the sleeping bhikshu, and he decided to pursue her, catch her, and take her before the Buddha in protest. He took out after her, and the woman became so reckless that she slipped off the road and tumbled down the mountain to her death. So one bhikshu had violated the precept against sexual activity and the other had broken the precept against killing. Although the bhikshu hadn't actually pushed her down the mountain, she wouldn't have fallen if he hadn't been pursuing her.

"What a mess!" concluded the two bhikshus. Messy as it was, they had to go before the Buddha and describe their offenses. The Buddha referred them to the Venerable Upali. But when Venerable Upali heard the details, his verdict was that, indeed, one had violated the precept against sexual activity and the other against killing, offenses which cannot be absolved. "You're both going to have to endure the hells in the future," he concluded.

Hearing this, the two bhikshus wept, and they went about everywhere trying to find someone who could help them. Eventually, they found the Great Upasaka Vimalakirti, who asked why they were crying. When they had related their tale, he pronounced his judgment that they had not violated the precepts.

"If you can be repentant," he said, "then I can certify that you didn't break the precepts."

"How can that be?" they asked.

"The nature of offenses is basically empty," replied the upasaka. "You did not violate the precepts intentionally, and so it doesn't count. It is an exception"

Hearing this explanation by the Great Teacher Vimalakirti, the two bhikshus were enlightened on the spot and were certified as attaining the fruition. After that, they became arhats. So there are many explanations within the prohibitive precepts. But if people always look to the exceptions, they will simply not hold the precepts. They will beg the question. So the Buddha did not speak much about this aspect.

If one upholds the precepts, one will not create karma that leads to trading places in rebirth and to killing one another in this world. One is born and then kills, and the victim is reborn and kills the one who killed him. But now karmic offenses created in the cycle of mutual rebirth and mutual killing cease. If one does not steal, one will not be indebted, and one will not have to pay back past debts in this world. The offenses of stealing will also cease when one stops stealing. "I won't take your things, and you won't take mine. I won't eat your flesh, and you won't eat mine. I won't become indebted to you, and you won't become indebted to me. In that way we won't have to pay each other back." You won't have to pay back the debts for offenses committed in the past once you sever your relationship with animals by not eating meat. If you don't eat their flesh, then you don't have any connections with them.



Kinh văn:

 

Th thanh tnh nhân tu tam ma đa ph mu nhc thân bt tu thiên nhãn t nhiên quán kiến thp phương thế gii đ Pht văn Pháp thân phng thánh ch đc đi thn thông du thp phương gii 宿túc mng thanh tnh đc nạn him

 

( Người thanh tịnh ấy, tu pháp Tam-ma-địa, chính nơi nhục thân cha mẹ sinh ra, không cần thiên nhãn, tự nhiên thấy được mười phương thế giới, thấy Phật nghe pháp, tự mình vâng lãnh thánh chỉ, được pháp đại thần thông, đi khắp mười phương thế giới, túc mạng được thanh tịnh, không còn những điều khó khăn nguy hiểm. )

 

 

Giảng giải:


Người thanh tịnh ấy, người không dùng năm loại rau cay, không uống rượu, ăn thịt, và kiên quyết nghiêm trì bốn hoặc tám giới TRỌNG (Ba-la-di). ( Nhưng ở Tỳ kheo giữ Tứ khí là DÂM, SÁT, ĐẠO, VỌNGcòn Tỳ kheo Ni giữ bát khí, có thêm bốn giới:  XÚC chạm thân đàn ông , NHẬP vào phòng đàn ông nói chuyện hẹn hò, PHÚ là che giấu tội lỗi của bạn đồng tu, TÙY là theo giúp người phạm giới bị đuổi; giữ nghiêm các giới như vậy để tránh tạo thêm nghiệp.) Nếu như người đó tu pháp Tam-ma-địa, chính nơi nhục thân cha mẹ sinh ra, không cần thiên nhãn, tự nhiên thấy được mười phương thế giới


Họ không cần phải có năng lực của Thiên nhãn để quán sát, họ vẫn thấy Phật nghe pháp, tự mình vâng lãnh thánh chỉ, được thân cận Phật và nghe pháp, được Phật chỉ giáo. Được pháp đại thần thông, đi khắp mười phương thế giới, túc mạng được thanh tịnh, không còn những điều khó khăn nguy hiểm. 


Thần lực của họ có khả năng đi xuyên suốt mười phương. Họ biết được các đời sống trong quá khứ, từ nhục thân mà thành tựu được nhiều ỨNG HÓA THÂN. Dù không có thiên nhãn nhưng chẳng khác gì đã có, cả thiên nhĩ cũng vậy. Những người tu ấy không còn gặp phải trở ngại hoặc hung hiểm nào.

 

Sutra:

If people who are pure in this way cultivate samadhi, they will naturally be able to contemplate the extent of the worlds of the ten directions with the physical body given them by their parents; without need of the heavenly eye, they will see the Buddhas speaking dharma and receive in person the sagely instruction. Obtaining spiritual penetrations, they will roam through the ten directions, gain clarity regarding past lives, and will not encounter difficulties and dangers.

Commentary:


If people who are pure in this way, who do not eat the five pungent plants, do not drink intoxicants, and do not eat meat, and can firmly uphold the four or the eight parajikas, the precepts, if such people cultivate samadhi, they will naturally be able to contemplate the extent of the worlds of the ten directions with the physical body given them by their parents; without need of the heavenly eye. They don't need to have the power of the heavenly eye in order to spontaneously see all around them.

They will see the Buddhas speaking Dharma and receive in person the sagely instruction. They will be able to encounter the Buddhas and hear the Dharma. They will receive in person the Buddhas' compassionate guidance. Obtaining spiritual penetrations, they will roam through the ten directions, gain clarity regarding past lives, and will not encounter difficulties and dangers. Their spiritual powers will enable them to go through the ten directions while in this place. They will obtain the knowledge of past lives. They accomplish these things with their physical bodies. Although they haven't obtained the power of the heavenly eye, it is as if they had. The same is true for the power of the heavenly ear. They'll never get into difficult situations or find themselves in dangerous positions.


Kinh văn:

 

Th tc danh vi đ nh tăng tiến tu hành tim th

 

( Đấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ hai.)

 

 

Giảng giải:

 

Điều quan trọng và cần thiết là cần phải đoạn trừ TÁNH của nghiệp. Chúng ta phải thay đổi nghiệp. Trước đây chúng ta phạm nhiều sai lầm, nay phải tích cực SÁM HỐI sửa đổi lại. Phải giữ gìn GIỚI LUẬT. Chính sự giữ giới đấy gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ hai.

 


Sutra:

This is the second of the gradual stages of cultivation.

Commentary:


What has been discussed is the need to cut out the essence of karmic offenses. One must rectify one's karma. Until now it has not been proper, and so one must work in order to change. One must guard and uphold the precepts and rules. Just that, the maintaining of precepts, is the second of the gradual stages of cultivation.



Comments

Popular posts from this blog