THẬP PHƯƠNG NHƯ-LAI,  

NHÂN TỤNG TÂM-CHÚ NÀY MÀ  ĐƯỢC THÀNH PHẬT




Kinh văn:

 

Nan  thị Phật đảnh quang tụ  Tất Đát Đa Bát Đát Ra  bí mật già đà  vi diệu chương cú  xuất sanh thập phương  nhất thiết chư Phật 

 

thập phương Như Lai  nhân thử chú tâm 。得đắc thành vô thượng  Chánh Biến Tri Giác 

 

 

( A Nan, những câu vi diệu, những kệ bí mật Tát đát đa, bát đát la của hóa thân từ hào quang nơi đỉnh Phật, sinh ra tất cả các Phật khắp mười phương. Thập phương Như Lai nhân chú tâm này mà được thành vô thượng chánh biến tri giác.)

 

 

Giảng giải:

 

A Nan, những câu vi diệu, những kệ bí mật Tát đát đa, bát đát la của hóa thân từ hào quang nơi đỉnh Phật.

 

Trước câu “Tát đát đa, bát đát la” còn có hai chữ Ma ha – nghĩa là lớn. Hán dịch: Đại bạch tán cái, tức Lọng trắng lớn. Cái lọng này  bao trùm các chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới. “Kệ” là đoạn lặp lại (trùng tụng). Chú là mật ngữ, gồm nhiều câu nối tiếp nên gọi là kệ bí mật.

 

Bài chú này sinh ra tất cả các Phật khắp mười phương.

 

Do đó, chú Lăng Nghiêm còn gọi là “mẹ của chư Phật”.

 

Thập phương Như Lai nhân chú tâm này mà được thành vô thượng chánh biến tri giác.

 

Do chú Lăng Nghiêm mà các Đức Phật được chánh biến tri. Chánh biến tri là sự biết từ tâm ứng khởi với mật pháp, cũng tức là mật pháp xuất hiện từ tâm.

 

 

Sutra:

Ananda, this cluster of light atop the crown of the Buddha's head, the secret gatha, Syi Dan Dwo Bwo Da La, with its subtle, wonderful divisions and phrases, gives birth to all the Buddhas of the ten directions. Because the Thus Come Ones of the ten directions use this mantra-heart, they realize unsurpassed, proper, and all-pervading knowledge and enlightenment.

Commentary:


Ananda, this cluster of light atop the crown of the Buddha's head, the secret gatha, Syi Dan Dwo Bwo Da La, is again, the great white canopy, which can cover over the entire system of three thousand great thousand worlds to protect all the living beings in it. "Gatha" is a Sanskrit term which means "repetitive verses." The mantra is secret, and since some of its lines are repeated, it is referred to as the "secret gatha." These "divisions and phrases" which comprise the mantra are extremely rare and miraculous. This mantra, with its subtle, wonderful divisions and phrases, gives birth to all the Buddhas of the ten directions. Therefore, the Shurangama Mantra can be called the "Mother of Buddhas."

Because the Thus Come Ones of the ten directions use this mantra-heart, they realize unsurpassed proper and all-pervading knowledge and enlightenment. It is by means of the Shurangama Mantra that the Buddhas realize proper and all-pervading awareness. "Proper knowledge" means they know that the mind gives rise to the myriad dharmas; "all-pervading knowledge" means that they know that the myriad dharmas come only from the mind.


Kinh văn:

 

thập phương Như Lai  chấp thử chú tâm  hàng phục chư ma  chế chư ngoại đạo 

 

( Mười phương Như Lai nắm chú tâm này, trấn áp các ma, chế phục các ngoại

đạo.)

 

 

Giảng giải:

 

Tâm chú, tức chú Lăng Nghiêm, được tuyên thuyết từ hóa thân Phật ngồi trên sen báu trong ánh hào quang từ đỉnh Phật Thích Ca.

 

Mười phương Như Lai nắm chú tâm này, trấn áp các ma, chế phục các ngoại đạo.

 

Đấy là tâm chú, và là tâm chú của các Phật nên các Thiên ma và hàng ngoại đạo tà kiến đều sợ hãi lánh xa thần chú này.

 

 

Sutra:

Because the Thus Come Ones of the ten directions take up this mantra-heart, they subdue all demons and control all adherents of outside ways.

Commentary:

The "mantra-heart", the Shurangama Mantra, was spoken by a transformation body Buddha seated upon a jeweled lotus amidst a thousand rays of light at the crown of the Buddha Shakyamuni's head. Because the Thus Come Ones of the ten directions take up this mantra-heart, they subdue all demons and control all adherents of outside ways. It is the heart of mantras, and it is a mantra-heart of the Buddhas. Therefore, what the heavenly demons and adherents of outside ways fear most is the Shurangama Mantra.


Kinh văn:

 

thập phương Như Lai  thừa thử chú tâm  tọa bảo liên hoa  ứng vi trần quốc 

 

( Mười phương Như Lai hành tâm chú này, ngồi tòa sen báu, ứng hiện trong các cõi nước như số vi trần.)

 

 

Giảng giải:

 

Mười phương Như Lai hành tâm chú này.

 

Nhờ vào thần chú, tức uy lực của tâm chú, và ngồi tòa sen báu rất nhiều hoa.

 

Ứng hiện trong các cõi nước như số vi trần.

 

Hóa thân Như Lai thị hiện trong khắp các cõi nước nhiều như số vi trần, đấy là uy lực của tâm chú Lăng Nghiêm.

 

Sutra:

Because the Thus Come Ones of the ten directions avail themselves of this mantra-heart, they sit upon jeweled lotus flowers and respond throughout countries as numerous as motes of dust.

Commentary:


Because the Thus Come Ones of the ten directions avail themselves of this mantra-heart. They borrow the mantra; as it were, they ascend the mantra-heart, and they sit upon jeweled lotus-flowers; huge blossoms, and respond throughout countries as numerous as motes of dust. Their response-bodies are able to go throughout lands as numerous as fine motes of dust, due to the power of the Shurangama Mantra-heart.




Kinh văn:

 

thập phương Như Lai  hàm thử chú tâm  ư vi trần quốc  chuyển đại Pháp luân 

 

( Mười phương Như Lai, ngậm tâm chú này, nơi cõi nước như số vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn.)

 

Giảng giải:

 

Khi mười phương Như Lai, nơi cõi nước như số vi trần, chuyển bánh xe pháp lớn, thảy đều nhờ vào thần chú, và ngậm tâm chú này.


Sutra:

Because the Thus Come Ones of the ten directions embody this mantra-heart, they turn the great dharma wheel in lands as numerous as fine motes of dust.

Commentary:

When the Thus Come Ones of the ten directions turn the great dharma wheel in lands as numerous as fine motes of dust, they also base themselves on this mantra. They embody this mantra-heart.


Kinh văn:

 

thập phương Như Lai  trì thử chú tâm  năng ư thập phương  ma đảnh thọ ký  tự quả vị thành  diệc ư thập phương  mông Phật thọ ký 

 

( Mười phương Như Lai giữ tâm chú này, có thể nơi mười phương xoa đảnh thọ ký. Tự mình quả vị chưa thành, cũng có thể nơi mười phương mong nhờ Phật thọ ký.)

 

 

Giảng giải:

 

Mười phương Như Lai giữ tâm chú này, tiếp thụ và giữ tâm chú, có thể nơi mười phương xoa đảnh thọ ký, mọi người được dự báo sẽ được thành Phật.

 

Tự mình quả vị chưa thành, cũng có thể nơi mười phương mong nhờ Phật thọ ký.

 

Nếu các ông chưa có quả vị, Phật cũng sẽ xoa lên đầu các ông và dự báo sẽ thành Phật.

 

 

Sutra:

Because the Thus Come Ones of the ten directions hold this mantra-heart, they are able to go throughout the ten directions to rub beings on the crowns of their heads and bestow predictions upon them. Also, anyone in the ten directions who has not yet realized the fruition, can receive a Buddha's prediction.

Commentary:


Because the Thus Come Ones of the ten directions hold this mantra-heart, they receive and uphold this mantra-heart, and so they are able to go throughout the ten directions to rub beings on the crowns of their heads and bestow predictions upon them. They bestow predictions of Buddhahood on other living beings. Also, anyone in the ten directions who has not yet realized the fruition, can receive a Buddha's prediction. If you have not realized the fruition, the Buddhas may still rub the crown of your head and bestow a prediction on you.




Kinh văn:

 

thập phương Như Lai  thử chú tâm  năng ư thập phương  bạt tế quần khổ  sở vị địa ngục ngạ quỷ súc sanh  manh lung âm á  oán tắng hội khổ  ái biệt ly khổ  cầu bất đắc khổ  ngũ ấm sí thịnh  đại tiểu chư hoạnh  đồng thời giải thoát  tặc nạn binh nạn  vương nạn ngục nạn  phong hỏa thủy nạn  cơ khát bần cùng  ứng niệm tiêu tán 

 

( Mười phương Như Lai nương tâm chú này, có thể nơi mười phương cứu vớt các khổ, như là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, mù, điếc, ngọng, câm; các khổ oán tắng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh, các nạn lớn nhỏ đồng thời được giải thoát; nạn giặc nạn binh, nạn vua, nạn ngục, nạn gió, lửa, nước, những đói, khát, bần cùng liền đươc tiêu tán.)

 

 

Giảng giải:

 

Mười phương Như Lai nương tâm chú này, có thể nơi mười phương cứu vớt các khổ.

 

1.       Sinh

 

2.     Tuổi già

 

3.     Đau bệnh

 

4.     Chết

 

5.     Yêu nhau phải xa cách.

 

6.     Phải gần gũi với người mình oán ghét.

 

7.     Cầu chẳng được.

 

8.     Khổ do thân tâm (năm ấm) sinh trưởng quá mạnh.

 

Ngoài ra còn có tám nỗi khổ khác:

 

1.       Khổ của địa ngục

 

2.     Khổ của quỷ đói

 

3.     Khổ của loài vật

 

4.     Khổ vì đui, điếc, hoặc câm

 

5.     Khổ vì sinh nơi Bắc câu ly (LÔ)  châu

 

6.     Khổ vì sinh vào lúc thế gian không có Phật


7.     Khổ vì tranh luận tri thức và khả năng trong thế gian


8.  Khổ vì tái sinh vào cõi trời thọ mạng quá lâu dài.


Chúng sinh trong cõi Bắc câu ly châu (Uttarakuru) có thọ mạng rất lâu, đời sống trung bình cả ngàn tuổi. Cư dân nơi đây rất an lạc, bình đẳng; khổ ở đây là không được thấy Phật, nghe pháp, hoặc có được Tăng già. Do đó, sống ở đó cũng là một trong tám nỗi khổ. Sự thật, chúng sinh nơi các cõi trời, mặc dù có thọ mạng lâu dài, nhưng nếu không gặp được Tam bảo thì cũng xem là khổ vậy.

 

“Tranh luận về tri thức và khả năng trong thế gian” bao hàm nhiều lĩnh vực kiến thức khác nhau, chẳng hạn phạm khoa học. Họ cố gắng trình bày, giải thích những nguyên tắc vô nguyên tắc, và lý do thì không đâu vào đâu.

 

Như là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, mù, điếc, ngọng, câm đều thuộc tám nỗi khổ.

 

Các khổ oán tắng hội.

 

Quý vị không ưa người nào đó và muốn tránh đi, tìm nơi khác, nhưng rồi lại gặp phải người đáng chán như trước đó.

 

Hoặc như ái biệt ly, quý vị đặc biệt yêu thích người nào, nhưng vì hoàn cảnh bắt buộc phải xa lìa họ.

 

Cầu bất đắc là tìm không được điều như ý, tâm sinh ra thất vọng, khổ não.

 

Ngũ ấm xí thạnh. Năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, khi thịnh thì bừng lên như lửa cháy.

 

Các nạn lớn nhỏ đồng thời được giải thoát, có thể đó là sự đột tử, hoặc tai nạn xe cộ, hoặc bị sát hại…

 

Những khổ khác như nạn giặc nạn binh, nạn vua, nạn ngục, nạn gió, lửa, nước, những đói, khát, bần cùng liền đươc tiêu tán.

 

Sutra:

Because the Thus Come Ones of the ten directions are based in this mantra-heart, they can go throughout the ten directions to rescue beings from such sufferings as being in the hells, being hungry ghosts, being animals, or being blind, deaf, or mute, as well as from the suffering of being together with those one hates, from the suffering of being apart from those one loves, from the suffering of not obtaining what one seeks, and from the raging blaze of the five skandhas.

They liberate beings from both large and small accidents. In response to their recitation, difficulty with thieves, difficulty with armies, difficulty with the law, difficulty with imprisonment, difficulty with wind, fire, and water, and difficulty with hunger, thirst, and impoverishment are all eradicated.

Commentary:


Because the Thus Come Ones of the ten directions are based in this mantra-heart, they can go throughout the ten directions to rescue beings from such sufferings as the eight sufferings:

1. birth,
2. old age,
3. sickness,
4. death,
5. being apart from those one loves,
6. being together with those one hates,
7. being unable to obtain what one seeks,
8. the raging blaze of the five skandhas.

There are also eight difficulties:

1. the difficulty of the hells,
2. the difficulty of hungry ghosts,
3. the difficulty of animals,
4. the difficulty of being blind, deaf, or mute,
5. the difficulty of being in Uttarakuru,
6. the difficulty of being born at a time when there is no Buddha in the world,
7. the difficulty of having worldly intelligence and powers in debate,
8. the difficulty of being reborn in the long-life heavens.

The beings in the northern continent, Uttarakuru, have a very long lifespan. They live an average of a thousand years. Life on that continent is extremely blissful; the difficulty is that the beings there have no opportunity to see the Buddha, hear the Dharma, or meet the Sangha. Therefore, living there is included among the eight difficulties. The same is true for beings in the heavens; although the lifespan is long, they have no chance to encounter the Triple Jewel. So that, too, is a difficulty.

"Having worldly intelligence and powers in debate" refers to different branches of mundane knowledge, such as the fields of science. They try to express principles where there are no principles and to give reasons when there aren't any.

Being in the hells, being hungry ghosts, being animals, or being blind, deaf, or mute, are among the eight difficulties. Then there is the suffering of being together with those one hates. This is when you move to get away from someone you can't stand, only to find that when you get to the new place, there's a person just like him there! There is also the suffering of being apart from those one loves. You love someone especially, but circumstances force you to be apart. Again, there is the suffering of not obtaining what one seeks. When you don't have something that you want, you seek for it. But if you encounter this suffering, you fail to get what you seek. The raging blaze of the five skandhas, form, feeling, thought, activity, and consciousness, the five skandhas, burn like fire.

They liberate beings from both large and small accidents. This can refer to untimely deaths, such as being killed in an automobile accident, being crushed by a falling building, or any other fatal accident. They can also liberate beings from difficulty with thieves, difficulty with armies, difficulty with the law, difficulty with imprisonment, difficulty with wind, fire, and water, and difficulty with hunger, thirst, and impoverishment. In response to their recitation, all these difficulties are eradicated.


Kinh văn:

 

thập phương Như Lai  tùy thử chú tâm  năng ư thập phương  sự Thiện Tri Thức  tứ uy nghi trung  cúng dường như ý  Hằng sa Như Lai hội trung  suy vi đại Pháp Vương Tử 

 

( Mười phương Như Lai theo tâm chú này, có thể nơi mười phương phụng sự các thiện tri thức, trong bốn uy nghi cúng dùng được như ý, trong pháp hội hằng sa Như Lai, được suy tôn là Đại pháp vương tử.)

 

 

Giảng giải:

 

Mười phương Như Lai theo tâm chú này, có thể nơi mười phương phụng sự các thiện tri thức.

 

Các bậc thiện tri thức đều được cúng dường và phụng sự.

 

Trong bốn uy nghi cúng dùng được như ý, khi hành lễ Tam bảo, họ đều thực hiện theo đúng pháp.

 

Trong pháp hội hằng sa Như Lai, được suy tôn là Đại pháp vương tử. trong pháp hội hằng sa Như Lai, được suy tôn là Đại pháp vương tử.

 

Đấy là những môn đồ ưu việt của Đức Phật.

 

Sutra:

Because the Thus Come Ones of the ten directions are in accord with this mantra-heart, they can serve good and wise advisors throughout the ten directions. In the four aspects of awesome deportment, they make wish-fulfilling offerings. In the assemblies of as many Thus Come Ones as there are sands in the Ganges, they are considered to be great Dharma princes.

Commentary:

Because the Thus Come Ones of the ten directions are in accord with this mantra-heart, they can serve good and wise advisors throughout the ten directions. They respectfully offer up their services to good and wise advisors. In the four aspects of awesome deportment, they make wish-fulfilling offerings. In the ceremony of offering to the Triple Jewel, their conduct is perfectly appropriate. In the assemblies of as many Thus Come Ones as there are sands in the Ganges, they are considered to be great Dharma princes. They are the foremost disciples of the Buddha.


Kinh văn:

 

thập phương Như Lai hành thử chú tâm năng ư thập phương  nhiếp thọ thân nhân linh chư Tiểu Thừa  văn mật tạng bất sanh kinh bố

 

( Mười phương Như Lai dùng tâm chú này, có thể nơi mười phương nhiếp thọ các thân nhân, khiến cho các hàng Tiểu thừa nghe được TẠNG BÍ MT, chẳng sinh lòng kinh sợ.)

 

 

Giảng giải:

 

Mười phương Như Lai dùng tâm chú này, có thể nơi mười phương nhiếp thọ các thân nhân.

 

Đức Phật có sau loại quyến thuộc, đấy là những người đầu tiên học đạo và được gần gũi Phật. Tại sao khi Đức Phật Thích Ca thành đạo xong, Ngài liền đi đến vườn Nai để gặp lại năm vị Tỳ kheo? Những vị Tỳ kheo ấy nguyên là quyến thuộc của Phật từ trong đời quá khứ và trong đời hiện tại. Họ đều được Phật dạy.

 

Khiến cho các hàng Tiểu thừa, đấy là những quyến thuộc của họ chìm đắm trong các pháp Tiểu thừa, nghe được TẠNG BÍ MT, chẳng sinh lòng kinh sợ.

 

Khi được nghe tạng bí mật của Phật, tức giáo pháp Đại thừa, họ sẽ không còn sợ hãi.

 

 

Sutra:

Because the Thus Come Ones of the ten directions practice this mantra-heart, they can gather in and teach their relatives in the ten directions. Causing those of the small vehicle not to be frightened when they hear the secret treasury.

Commentary:


Because the Thus Come Ones of the ten directions practice this mantra-heart, they can gather in and teach their relatives in the ten directions. Buddhas have the six kinds of close relatives, too, and they first gather in and teach those of their relatives who draw near to them. Why was it that when Shakyamuni Buddha became a Buddha he went first to the Deer Wilds Park to take across the five bhikshus? It is because those five bhikshus were his relatives in that present life and had been his relatives in lives past. They can teach them, causing those of the small vehicle, that is, their relatives who have fallen into studying the small vehicle dharmas, not to be frightened when they hear the Secret Treasury. When they hear the treasury of secrets told by the Buddha, the great vehicle dharma they are not afraid.


Kinh văn:

 

thập phương Như Lai tụng thử chú tâm thành thượng giác tọa Bồ Đề thọ nhập đại Niết Bàn

 

(Mười phương Như Lai tụng tâm chú này, thành đạo vô thượng, ngồi dưới cây Bồ đề, vào Đại Niết bàn.)

 

Giảng giải:

 

Mười phương Như Lai tụng tâm chú này.

 

Làm thế nào các Như Lai trong mười phương trở thành Phật? Đấy là do tụng tâm chú này. “TỤNG” có nghĩa là lặp lại từ trí nhớ (TỪ TÂM VÔ-PHÂN-BIỆT LƯU XUẤT RA)  chứ không phải nhìn vào sách đọc.

 

Thành đạo vô thượng, ngồi dưới cây Bồ đề và thành vị Phật vì tụng thận chú này và vào Đại Niết bàn.

 

 

Sutra:

Because the Thus Come Ones of the ten directions recite this mantra-heart, they realize unsurpassed enlightenment while sitting beneath the Bodhi tree, and they enter parinirvana.

Commentary:


Because the Thus Come Ones of the ten directions recite this mantra-heart. How do the Thus Come Ones in the ten directions become Buddhas? It is also because they recite this mantra-heart. "Recite" means to repeat from memory without looking at the book. They realize unsurpassed enlightenment while sitting beneath the Bodhi tree, and become Buddhas because they recite this mantra. And they enter parinirvana.


Kinh văn:

 

thập phương Như Lai truyền thử chú tâm ư diệt độ hậu  phó Phật Pháp sự cứu cánh trụ trì nghiêm tịnh giới luật tất đắc thanh tịnh

( Mười phương Như Lai truyền tâm chú này, sau khi diệt độ thì phó chúc pháp sự của Phật, được trụ trì rốt ráo, giới luật nghiêm tịnh, thảy đều được trong sạch.)

 

 

Giảng giải:

 

Mười phương Như Lai truyền tâm chú này, sau khi diệt độ thì phó chúc pháp sự của Phật, được trụ trì rốt ráo.

 

 

Sau khi Phật vào Niết bàn, mọi người đều y theo pháp tu tập và phụng sự Phật pháp, giới luật nghiêm tịnh, thảy đều được trong sạch, nhờ vào uy lực của chú mà mọi người đều được trong sạch và trọn vẹn.

 

 

Sutra:

Because the Thus Come Ones of the ten directions transmit this mantra-heart, those to whom they have bequeathed the Buddhadharma can, after their nirvana, dwell in it completely and uphold it. Being strict and pure about the precepts and rules, they can all obtain purity.

Commentary:


Because the Thus Come Ones of the ten directions, transmit this mantra-heart, those to whom they have bequeathed the Buddhadharma can, after their nirvana, dwell in it completely and uphold it. After the Buddhas go to nirvana, people who inherit the dharma from them know how to cultivate and to receive and uphold the Buddhadharma. Being strict and pure about the precepts and rules, they can all obtain purity. It is because of the power of the mantra that they obtain purity and perfection.


Kinh văn:

 

Nhược ngã thuyết thị  Phật Đảnh Quang Tụ  Bát Đát Ra Chú tùng thả chí mộ âm thanh tương liên tự trung gian diệc bất trùng điệp kinh Hằng sa kiếp chung bất năng tận

 

 

( Nếu ta nói chú PHT ĐẢNH QUANG TỤ BÁT-ĐÁT-RA này, từ sáng đến tối, các tiếng nối nhau, trong đó có những chữ, những câu cũng không trùng điệp, trải qua kiếp số như cát sông Hằng, rốt cùng không thể dứt hết.)

 

 

Giảng giải:

 

Nếu ta nói chú Phật đỉnh quang tụ Bát đát la này, từ sáng đến tối, các tiếng nối nhau, trong đó có những chữ, những câu cũng không trùng điệp, câu chú Bát đát la liên hệ với chú Lăng Nghiêm, đấy là chú kiên cố, là chú Đại Bạch Tán Cái.

 

Trải qua kiếp số như cát sông Hằng, rốt cùng không thể dứt hết.

 

Tôi không sao giảng giải cho hết công đức và sự kỳ diệu của tâm chú Lăng Nghiêm được.

 

 

Sutra:

If I were to explain this mantra, Bwo Da La, of the cluster of light atop the crown of the Buddha's head from morning till night in an unceasing sound, without ever repeating any syllable or phrase, I could go on for as many kalpas as there are sands in the Ganges and still never finish.

Commentary:


If I were to explain this mantra, Bwo Da La, of the cluster of light atop the crown of the Buddha's head from morning till night in an unceasing sound, without ever repeating any syllable or phrase. The "mantra Bwo Da La" refers to the Shurangama Mantra, the "durable mantra," the mantra of the great white canopy. I could go on for as many kalpas as there are sands in the Ganges and still never finish. I would never come to the end of my explanation of the Shurangama Mantra-heart's merits and virtues and wonderful functions.



Kinh văn:

 

Diệc thuyết thử chú  danh Như Lai Đảnh

 

( Chú này cũng gọi tên là Như Lai đảnh.)

 

 

Giảng giải:

 

 

Chú này cũng gọi tên là Như Lai đảnh.

 

Đấy là tên gọi của bài chú.

 

 

Sutra:

I also will tell you that this mantra is called "The Crown of the Thus Come One."

Commentary:


I also will tell you that this mantra is called "The Crown of the Thus Come One." That's another name for it.



Kinh văn:

 

Nhữ đẳng Hữu Học vị tận luân hồi phát tâm chí thành  thủ A La Hán bất trì thử chú  nhi tọa Đạo Tràng linh kỳ thân tâm viễn chư ma sự hữu thị xứ

 

( Hàng hữu học các ông chưa dứt được luân hồi, phát TÂM CHÍ THÀNH tu chứng quả A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, nếu KHÔNG TRÌ CHÚ NÀY mà ngồi vào đạo tràng, mong muốn cho thân tâm xa rời được các ma sự thì không thể được.)

 

 

Giảng giải:

 

Hàng hữu học các ông chưa dứt được luân hồi vẫn bị vây hãm trong sáu nẻo luân hồi sanh tử, và phát lòng chí thành tu chứng quả A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề, ông muốn đạt được quả vị A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề.

 

Nhưng nếu không trì chú này mà ngồi vào đạo tràng, mong muốn cho thân tâm xa rời được các ma sự thì không thể được.

 

Như ông muốn được thành A-la-hán hoặc muốn ngồi vào đạo tràng để thành Phật, thân tâm xa lìa ma sự nhiễu loạn mà không trì thần chú này thì không thể được.

 

 

Sutra:

All of you with something left to study who have not yet put an end to the cycle of rebirth and yet have brought forth sincere resolve to become arhats, will find it impossible to sit in a Bodhimanda and be far removed in body and mind from all demonic deeds if you do not hold this mantra.

Commentary:


All of you with something left to study who have not yet put an end to the cycle of rebirth are still caught in the turning wheel of the six paths. And yet you have brought forth sincere resolve to become arhats. You would like to attain the fruition of arhatship. But you will find it impossible to sit in a Bodhimanda and be far removed in body and mind from all demonic deeds if you do not hold this mantra. If you want to become an arhat and yet do not hold this mantra, or if you want to sit in a Bodhimanda and become a Buddha, and yet have part in demonic activities, either physically or mentally, you are attempting the impossible. In other words, you must recite this mantra to be free of demonic doings. If you don't hold this mantra, you cannot sit in the Bodhimanda, nor can you stay away from the deeds of demons.


Kinh văn:

 

A 難Nan 。 若nhược 諸chư 世thế 界giới 。 隨tùy 所sở 國quốc 土độ 所sở 有hữu 眾chúng 生sanh 。 隨tùy 國quốc 所sở 生sanh 。 樺hoa 皮bì 貝bối 葉diệp  紙chỉ 素tố 白bạch 疊thảm  書thư 寫tả 此thử 咒chú 。 貯trữ 於ư 香hương 囊nang 。 是thị 人nhân 心tâm 昏hôn 。 未vị 能năng 誦tụng 憶ức 。 或hoặc 帶đới 身thân 上thượng 。 或hoặc 書thư 宅trạch 中trung 。 當đương 知tri 是thị 人nhân  盡tận 其kỳ 生sanh 年niên 。 一nhất 切thiết 諸chư 毒độc 。 所sở 不bất 能năng 害hại 。

 

( A Nan, nếu trong các thế giới có các chúng sanh, tùy cõi nước mình sinh ra, như vỏ cây hoa, lá cây bối, hoặc như giấy trắng, thảm trắng, dùng để bên chép chú này, đựng trong túi thơm; NẾU NGƯỜI ĐÓ TỐI TĂM, CHƯA NHỚ TỤNG ĐƯỢC, nhưng hoặc đeo trên người, hoặc viết trong nhà ở, thì nên biết là người ấy trọn đời, tất cả các thứ độc không thể hại được.)

 

 

Giảng giải:

 

Đây là Luận về chức năng của chú.

 

A Nan, nếu trong các thế giới có các chúng sanh.

 

Chỉ chung cho các chúng sanh trong cõi này và tất cả các thế giới khác.

 

Tùy cõi nước mình sinh ra, có thể đó là nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái, Miến Điện, Tích Lan, hoặc một khu vực nào khác. Họ có thể viết trên các loại như vỏ cây hoa, lá cây bối, hoặc như giấy trắng, thảm trắng, dùng để bên chép chú này.

 

Vật liệu dùng để viết không phải là vấn đề quan trọng, và người ta có thể viết một cách cẩn thận, kính cẩn, hoặc viết tháo cho nhanh.

 

Sau đó đựng trong túi thơm; nếu người đó tối tăm, chưa nhớ TỤNG được, nhưng hoặc đeo trên người, hoặc viết trong nhà ở, thì nên biết là người ấy trọn đời, tất cả các thứ độc không thể hại được.

 

Nếu người đó không có trí nhớ tốt, hoặc đầu óc mơ hồ KHÔNG TỤNG CHÚ ĐƯỢC thuận lợi, họ có thể viết chú, cho vào túi nhỏ đeo bên người, hoặc treo trên tường nhà. Làm được vậy, người đó SUỐT ĐỜI KHÔNG BỊ ĐỘC HẠI.

 

 

Sutra:

Ananda, let any living being of any country in any world copy out this mantra in writing on materials native to his region, such as birch bark, pattra, plain paper, or white cotton cloth, and store it in a pouch containing incense. If that person wears the pouch on his body, or if he keeps a copy in his home, then you should know that even if he understands so little that he cannot recite it from memory, he will not be harmed by any poison during his entire life.

Commentary:

The functions of the mantra are discussed here. Ananda, let any living being of any country in any world, this means that in this world or another world or in any one of limitless worlds, a person may copy out this mantra in writing on materials native to his region. The person could be American, English, French, German, Japanese, Chinese, Indian, Thai, Burmese, Ceylonese, or a citizen of any other country at all.

Perhaps he writes on birch bark or on pattra, which are palm leaves, on plain paper, or white cotton cloth. Whether he writes it out on paper or cloth or some other material that can be written on doesn't matter. And he can copy it carefully and respectfully, or write it out casually in longhand. Let him store it in a pouch containing incense. If that person wears the pouch on his body, or if he keeps a copy in his home, then you should know that even if he understands so little that he cannot recite it from memory, he will not be harmed by any poison during his entire life.

If the person doesn't have a good memory or if he is muddle-headed and can't recite the mantra well, he can write the mantra out and wear it in a little bag, or he can write it out and hang it on the wall of his house. If someone does that, he will go through his entire life without being poisoned. There are strong and weak poisons, but no matter what kind it is, it cannot harm him.


Kinh văn:

 

A Nan ngã kim vị nhữ  cánh thuyết thử chú cứu hộ thế gian  đắc đại úy thành tựu chúng sanh  xuất thế gian trí

 

( A Nan, nay ta vì ông tuyên lại chú này, cứu giúp trong thế gian được đại vô úy, THÀNH TỰU TRÍ XUT TH GIAN cho chúng sanh.)

 

 

Giảng giải:

 

              A Nan, nay ta vì ông tuyên lại chú này, tức là chú Lăng Nghiêm, cứu giúp trong thế gian được đại vô úy, thành tựu trí xuất thế gian cho chúng sanh.

             

              Thực hiện trọn vẹn những mong muốn của các chúng sanh, nhưng quan trọng nhất là giúp mọi người được thành tựu trí xuất thế gian.

 

 

Sutra:

Ananda, I will now tell you more about how this mantra can rescue and protect the world, help people obtain great fearlessness, and bring to accomplishment living beings' transcendental wisdom.

Commentary:


Ananda, I will now tell you more about how this mantra, the Shurangama Mantra, can rescue and protect the world, help people obtain great fearlessness, and bring to accomplishment living beings' transcendental wisdom. It can fulfill any wishes living beings might have, but most importantly, it can reveal their transcendental wisdom.


Kinh văn:

 

Nhược ngã diệt hậu mạt thế chúng sanh hữu năng tự tụng nhược giáo tha tụng đương tri như thị  tụng trì chúng sanh hỏa bất năng thiêu thủy bất năng nịch đại độc tiểu độc  sở bất năng hại

 

 

( Nếu như sau khi ta diệt độ rồi, chúng sanh trong đời mạt pháp, có người tự mình biết tụng, hoặc dạy người khác tụng chú này, nên biết những chúng sanh trì tụng như vậy, lửa sẽ không đốt được, nước không đắm được, các độc lớn độc nhỏ đều không hại được.)

 

 

Giảng giải:

 

Nếu như sau khi ta diệt độ rồi, chúng sanh trong đời mạt pháp kể cả mọi người chúng ta nơi đây.

 

Có người tự mình biết tụng, hoặc dạy người khác tụng chú này, nên biết những chúng sanh trì tụng như vậy, lửa sẽ không đốt được.

 

Người đó có thể tụng chú theo trí nhớ, hoặc chỉ dạy cho người khác cũng theo trí nhớ. Người tụng chú theo trí nhớ hoặc đọc theo ghi chép, người đó sẽ không bị nạn lửa thiêu đốt, và nước không đắm được, các độc lớn độc nhỏ đều không hại được.

 

 

Sutra:

You should know that, after my extinction, if there are beings in the Dharma-ending Age who can recite the mantra themselves or teach others to recite it, such people who recite and uphold it cannot be burned by fire, cannot be drowned by water, and cannot be harmed by mild or potent poisons.

Commentary:

You should know that, after my extinction, if there are beings in the Dharma-ending Age, this includes you and me, who can recite the mantra themselves or teach others to recite it, such people who recite and uphold it cannot be burned by fire. Perhaps one can recite the mantra from memory or teach others to recite it from memory. People who can recite the mantra from memory or can read it will not be burned by fire, and they cannot be drowned by water, nor can they be harmed by mild or potent poisons.


Kinh văn:

 

Nthị nãi chí  thiên long quỷ thần tinh kỳ ma mị sở hữu ác chú  giai bất năng trước

 
Tâm đắc chánh thọ nhất thiết chú trớ yếm cổ độc dược kim độc ngân độc thảo mộc trùng vạn vật độc khí nhập thử nhân khẩu thành cam lộ vị

 

 

( Như vậy, cho đến các hàng thiên, long, quỷ, thần, tinh, kỳ, ma, mỵ, có những chú dữ đều chẳng làm gì được. Tâm người ấy được chính thọ, tất cả mọi chú trớ, yểm cổ, thuốc độc, kim độc, ngân độc, những độc khí vạn vật như cỏ, cây, sâu, rắn, vào miệng người ấy đều thành vị cam lộ.)

 

 

Giảng giải:

 

Như vậy, cho đến các hàng thiên, long, quỷ, thần, tinh, kỳ, ma, mỵ, có những chú dữ đều chẳng làm gì được.

 

Tất cả mọi loài ma quỷ đều dùng chú trớ. Có năm đoạn chú mà tôi đã nói qua, đó là:

 

-         Sất Đà Nễ

 

-         A Ca La

 

-         Mật Rị Trụ

 

-         Bát Rị Đát Ra Da

 

-         Nảnh Yết Rị.

 

Biểu hiện cho năm phương, năm bộ và năm vị Phật. Đấy là “ngũ đại tâm chú”.

 

Quý vị không nên xem thường. Tâm chú ấy là của chư Phật trong năm phương, nó có công năng hủy diệt mọi chú trớ của các loài ma quỷ.

 

Tâm người ấy được chính thụ.

 

Khi quý vị tụng chú Lăng Nghiêm, quý vị sẽ được chánh định.

 

Tất cả mọi chú trớ, mọi chú thuật của Thiên ma và quyến thuộc đều không thể gây hại cho quý vị.

 

Yếm cổ, đây là một loài phù chú ở khu vực Đông Nam Trung Quốc, hoặc Đông Nam Châu Á như Miến Điện, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Malaysia và các nơi khác. Phù chú sử dụng gọi là “Cổ” (Làm cho mê hoặc, đờ đẫn), căn bản là chú thuật.

 

Nếu quý vị ăn phải loài độc đó, quý vị hoàn toàn không lệ thuộc họ, phải làm những gì họ sai khiến, nếu chống lại chỉ có nước chết. Ở Australia, trong các vùng núi, có tôn giáo đã dùng chú thuật thu nhỏ đầu người cỡ quả trứng, và họ trưng bày như biểu hiện uy lực của phù thủy vậy.


Trong thế giới mênh mông này có rất nhiều sự việc siêu nhiên. Quý vị đừng cho rằng mình không thấy thì dứt khoát không tin là nó có thực. Nếu ai đó không tin thì thực là ngu ngốc! Tại sao tôi lại nói vậy? Có nhiều sự việc quý vị không bao giờ nhìn thấy được, còn như muốn tìm hiểu, chứng kiến tận mắt rồi mới tin thì e là đến cuối đời mình cũng không biết được.


            Cũng như nước Mỹ , thời xưa không ai biết được, nếu như quý vị gặp ai đó và cố gắng giải thích rằng:  “Có một lục địa khác, cũng có núi có sông, có cư dân, thì chắc chắn họ sẽ không tin”. Thế nhưng, cho dù họ có tin hay không tin thì nước Mỹ vẫn hiện hữu ở nơi xa xôi kia.



            Cũng vậy, nếu quý vị không tin vào những chuyện lạ là vì cho là vô lý, nhưng thực sự không phải vậy. Chúng ta thường phủ nhận những gì mình không chứng kiến, căn bản là vì quý vị không nhận thức rõ về sự thực thế giới này.



Một người bị YỂM CỔ  làm hại thì khó lòng thoát khỏi, còn như chống lại ắt sẽ bị chết. Nhưng Sự độc hại của YỂM CỔ cùng với thuốc độc, kim độc, ngân độc, những độc khí của vạn vật như cỏ, cây, sâu, rắn, vào miệng của người TRÌ CHÚ THỦ LĂNG NGHIÊM thì sẽ BIẾN THÀNH VỊ CAM LỘ.



            Nếu quý vị đề nghị với Tôi là QÚY-VỊ  muốn thử nghiệm điều ấy, thì cũng được thôi. Nhưng phải đợi khi nào quý vị trì CHÚ LĂNG NGHIÊM có THÀNH TỰU, thì có thể thử nghiệm; còn như chưa THÀNH TỰU thì không nên làm.


Sutra:

And so it is in every other case, such that they cannot be possessed by any evil mantra or any heavenly dragon, ghost, or spirit, or by any essence, weird creature, or demonic ghost. These people's minds will attain proper reception, so that any spell, any paralyzing sorcery, any poison or poisoning gold, any poisoning silver, any plant, tree, insect, or snake, and any of a myriad kinds of poisonous vapors will turn into sweet dew when it enters their mouths.

Commentary:


And so it is in every other case, such that they cannot be possessed by any evil mantra or any heavenly dragon, ghost, or spirit, or by any essence, weird creature, or demonic ghost. All these kinds of ghosts and demons use evil spells. The five phrases of the mantra I told you about recently,

Chr Two Ni
E Jya La
Mi Li Ju
Bwo Li Dan La Ye
Ning Jye Li

represent the five directions, the five divisions, and the five Buddhas. They are known as the "Five Great Heart Mantras." You should not regard them as ordinary. Together they comprise the Heart-mantra of the Buddhas of the five directions. The function of this Heart-mantra is to destroy the mantras and spells of demons. It doesn't matter what kind of evil spell they are weaving; you can smash through it with this mantra. Their mantras lose all their effectiveness.

They are rendered useless. These evil mantras cannot possess you, because the "Five Great Heart Mantras" destroy them. These people's minds will attain proper reception. If you recite the Shurangama Mantra, you can obtain proper concentration, so that any spell, any devious mantra of the heavenly demons or of adherents of externalist ways, cannot harm you. Any paralyzing sorcery.

There is a lot of sorcery in southern China, also in Southeast Asia, such as Burma, Korea, Thailand, Singapore, Malaysia, and such places. The kind of sorcery they use, called ku is also based on mantras and spells. If you eat something poisoned by them, you are forever under their spell; you must do as they command. If you don't, you die. In Australia, in the mountain regions, there is a religious sect that uses mantras to shrink people's heads to the size of chicken eggs. And then they put them on display as sorcerer's charms.

In a world as large as this, there's every kind of weird thing imaginable. You shouldn't have the attitude that if you haven't seen it, you don't believe it exists. If you don't believe it, you're just plain stupid. Why do I say that? There are lots of things you've never seen, and if you go on with the idea that you must see them before you believe them, you'll never finish in your entire life.

Before America was discovered, before anyone knew it existed, if you had approached someone and tried to convince him that there was, in fact, another continent with mountains and all the rest, he very likely would not have believed you. But, though he may have denied the existence of America, would that have meant that America did not, in fact, exist? Was it there before it was discovered? Whether or not he admitted its existence, it still existed.

By the same token, whether or not you believe that the strange things being discussed here exist, they exist nonetheless. So if you deny the existence of a thing just because you haven't seen it yourself, you basically don't have a grasp of the way the world really is.

If someone sinks some ku in you, if they apply their sorcery to you, you are forever their slave. If you oppose them, you die. In addition to ku poison, if any poison or poisoning gold, any poisoning silver, any plant, tree, insect, or snake, or any of a myriad kinds of poisonous vapors enter the mouth of people who recite the Shurangama Mantra, it will turn into sweet dew. "Suppose I test this," you suggest. "Suppose I experiment." You still haven't perfected your recitation of the Shurangama Mantra. When you've got it down to the point that it's efficacious and magical, then you can experiment. Before you reach that stage, don't play around with it.


Kinh văn:

 

Nhất thiết ác tinh  tịnh chư quỷ thần sầm tâm độc nhân ư như thị nhân  bất năng khởi ác Tần Na DCa  chư ác quỷ vương tịnh kỳ quyến thuộc giai lãnh thâm ân thường gia thủ hộ

 

( Tất cả ác tinh cùng với các quỷ thần, lòng dữ hại người, đối với người ấy cũng không thể khởi lên niệm ác. Tần Na Dạ Ca và các quỷ vương khác, cùng với quyến thuộc, đều nhận lấy ân sâu, thường giữ gìn ủng hộ.)

 

 

Giảng giải:

 

Đoạn trước có nói về các loại độc khi vào miệng người trì tụng chú Lăng Nghiêm thì nó thành vị cam lồ. Căn bản là những loại độc đó đã biến đổi vị, sự biến đổi ấy là do người trì tụng chú Lăng Nghiêm.

 

Tât cả ác tinh liên hệ với nhiều sao dữ như Trư Đầu và Bạch Hổ tinh, hoặc sao Tượng Ti rất xấu, có thể gây chết người. Nhưng các loại sao ấy không thể gây hại, cùng với các quỷ thần, lòng dữ hại người.

 

Có người nói họ không tin có quỷ. Họ không thấy nên không tin, nếu nhìn thấy, họ không thể không tin, cho dù có không muốn tin cũng phải tin thôi. Lòng dữ là một loại thuốc độc rất nguy hại, nhưng nó có ngấm vào tim một người trì chú Lăng Nghiêm cũng sẽ chẳng gây hại gì, cho nên đối với người ấy cũng không thể khởi lên niệm ác.

 

Sự độc hại trong tim người đó đã được chuyển hóa.

 

Tần Na Dạ Ca (Vinayaka) được nói đến trong phần Bồ đề đạo tràng, đây là vị quỷ thần thường hiện thân mình người, đầu heo hoặc đầu voi, trông rất dữ dằn, xấu xí.

 

Và các quỷ vương khác, cùng với quyến thuộc, đều nhận lấy ân sâu, thường giữ gìn ủng hộ.

 

Các quỷ vương và thần Hộ pháp thấm nhuần lòng từ sâu xa của Phật trong quá khứ nên thảy đều ra sức gìn giữ, bảo hộ người tụng chú Lăng Nghiêm này.

 

Sutra:

No evil stars, and no ghost or spirit that harbors malice in its heart and that poisons people can work its evil on these people. Vinayaka as well as all the evil ghost kings and their retinues will be led by deep kindness to always guard and protect them.

Commentary:


The previous section of text said that any kind of poisonous thing that enters the mouth of a person who recites and upholds the Shurangama Mantra will turn into sweet dew. These things are basically poisonous, but their composition changes. And the change comes about because one recites and upholds the Shurangama Mantra.

No evil star refers to evil constellations and such things as Tai Sui and the White-tiger Star, which is terrible. And there is the star Sang Men, which is extremely inauspicious and can kill people. But none of these kinds of stars can harm one, nor can any ghost or spirit that harbors malice in its heart and poisons people.

Some people say they don't believe in ghosts or spirits. They have never seen a ghost, and so they don't believe there are any. If they saw one, they'd have no way not to believe in it, even if they didn't want to. "Malice" is also a kind of poison, like arsenic. That drug is fatal if more than a little is taken. But someone with even that much poison in his heart still cannot harm a person who recites and upholds the Shurangama Mantra. He cannot work his evil on these people. Rather, the poison in their own hearts is transformed.

Vinayaka was mentioned in the description of setting up the Bodhimanda. He is a protector with the various transformations which often show a boar or an elephant head with a trunk on a human body. In general he is extremely ugly. He as well as the evil ghost kings and their retinues will be led by deep kindness to always guard and protect them. Having been influenced by the profound compassion of the Buddha in the past, these ghost kings and dharma protectors have resolved to always guard and protect those who recite and uphold the Shurangama Mantra. The advantages of reciting the Shurangama Mantra are truly inconceivable.


Kinh văn:

 

A Nan đương tri thị chú thường hữu  bát vạn tứ thiên na do tha  hằng sa câu chi Kim Cang Tạng Vương  Bồ Tát chủng tộc nhất nhất giai hữu  chư kim cang chúng  nhi vi quyến thuộc trú dạ tùy thị

 

( A Nan, nên biết chú này thường có tám mươi bốn nghìn na do tha hằng sa câu chi chủng tộc Kim Cang Tạng vương Bồ tát. Mỗi mỗi đều có các chúng Kim Cang làm quyến thuộc, đêm ngày theo hầu.)

 

 

Giảng giải:

 

“Na-do-tha” là một trong mười bốn số lớn nhất trong ngôn ngữ Sanskrit. Có người nói NA-DO-THA bằng một ngàn tỷ, người khác cho là mười ngàn tỷ. Nhìn chung đó là con số rất lớn. Hằng-sa câu-chi tương đương một ngàn tỷ. Không chỉ Kim Cang Tạng vương Bồ tát hộ trì thần chú, mà các quyến thuộc của Kim Cang cũng đều tham gia bảo hộ. Đêm cũng như ngày luôn theo giúp người tụng chú Lăng Nghiêm.

 

Lời nguyện của các Bồ tát như sau:

 

Nam-mô thường-trụ thập-phương Phật.

 

Nam-mô thường-trụ thập-phương Pháp.

 

Nam-mô thường-trụ thập-phương Tăng.

 

Nam-mô Thích-Ca Mâu-Ni Phật.

 

Nam-mô Phật-đảnh Thủ-Lăng-Nghiêm.

 

Nam-mô Quán-Thế-Âm Bồ-tát.

 

Nam-mô Kim-Cang-Tạng Bồ-tát.

 

 

Tám mươi bốn nghìn là chỉ số lượng lớn, có nhiều vô số. Thực sự, không chỉ có Kim Cang Tạng Bồ tát và các quyến thuộc, mà còn rất nhiều Bồ tát khác cũng theo bảo hộ.

 

 

Sutra:

Ananda, you should know that eighty-four thousand nayutas of Ganges' sands of kotis of Vajra Treasury-King Bodhisattvas and their descendants, each with vajra multitudes as retinue, are ever in attendance, day and night, upon this mantra.

Commentary:


"Nayuta" is one of the fourteen large numbers in Sanskrit. Some say it represents one trillion; others say ten trillion. In general, it's a big number. "Ganges' sands of kotis" is said to be equivalent to a trillion. Not only are the Vajra Treasury-King Bodhisattvas in attendance on the mantra, those of their lineage are also present. And each member of the entire lineage is accompanied by a retinue of Vajra beings. Day and night, they are always present wherever the Shurangama Mantra is being upheld.

These Bodhisattvas are the ones praised in the section above:

Namo Buddhas of the ten directions,
Namo Dharma of the ten directions,
Namo Sangha of the ten directions,
Namo Shakyamuni Buddha,
Namo Foremost Shurangama atop the Buddha's summit,
Namo Guan Shi Yin Bodhisattva,
Namo Vajra Treasury Bodhisattvas.

The eighty-four thousand are referred to in the last line. But actually, it's not only the Vajra Treasury Bodhisattvas who are so numerous. The retinues of all Bodhisattvas are that numerous.



Kinh văn:

 

Thiết hữu chúng sanh ư tán loạn tâm phi tam ma địa tâm ức khẩu trì thị Kim Cang Vương thường tùy tùng bỉ  chư thiện nam tử huống quyết định  Bồ Đề tâm giả thử chư Kim Cang Bồ Tát Tạng Vương tịnh tâm âm tốc phát bỉ thần thức

 

 

( Giả như có chúng sanh với tâm tán loạn chứ không phải tam ma địa, tâm nhớ niệm trì chú này thì các Kim Cang Vương cũng thường theo bên thiện nam tử kia, huống hồ là người có tâm Bồ đề quyết định; các vị Kim Cang Tạng vương Bồ tát đó sẽ dùng tịnh tâm thầm xúc tiến phát huy thần thức. )

 

 

Giảng giải:

 

Giả như có chúng sanh với tâm tán loạn tư tưởng rời rạc, không tập trung được, chứ không phải Tam Ma Địa (CHÁNH ĐỊNH), nhưng tâm nhớ niệm trì chú này, người ấy nhớ đọc chú Lăng Nghiêm của Phật, thì các Kim Cang Vương, các vị Bồ tát, cũng thường theo bên thiện nam tử kia, tức những người tâm tán loạn nhưng tụng thần chú này, huống hồ là người có tâm Bồ đề quyết định, người có tâm Bồ đề kiên cố sẽ được các vị Kim Cang Tạng vương Bồ tát đó sẽ DÙNG TỊNH TÂM thầm xúc tiến phát huy thần thức, các Bồ tát sẽ âm thầm giúp đỡ và họ sẽ làm gì?

 

 Đấy là giúp quý vị phát huy Trí Huệ, TÂM tán loạn của quý vị dần dần được tập trung vào CHÁNH ĐỊNH, sau đó sẽ đạt được khả năng thiền tịnh. Sự gia hộ, giúp đỡ của các Bồ tát đều âm thầm, không thể thấy biết được.

 

Sutra:

If living beings whose minds are scattered and who have no samadhi remember and recite the mantra, the Vajra Kings will always surround them. Therefore, good men, that is even more true for those who are decisively resolved upon Bodhi. All the Vajra Treasury-King Bodhisattvas will regard them attentively and secretly hasten the opening of their spiritual consciousness.

Commentary:


If living beings whose minds are scattered, their thoughts go every which way and are not the least bit concentrated. They also have no samadhi power, but they remember and recite the mantra. They remember the Shurangama Mantra spoken by the Buddha. The Vajra Kings, the Bodhisattvas, will always surround them, that is, those with scattered minds, if they uphold the Shurangama Mantra.

Therefore, good men, that is even more true for those who are decisively resolved upon Bodhi. You people who have firmly brought forth the Bodhi mind will also be protected by these Vajra Treasury-King Bodhisattvas, who will regard you attentively and secretly hasten the opening of your spiritual consciousness. With close regard for you, they will help you in hidden ways. What will they do? They will help you increase your wisdom, your spiritual consciousness. Little by little they will help those who have scattered minds to become concentrated. Gradually they will obtain samadhi-power. Invisibly they will help those who hold the mantra to open their wisdom and become single-minded.


Kinh văn:

 

Thị nhân ứng thời  tâm năng ức  bát vạn tứ thiên  Hằng sa kiếp chu biến liễu tri đắc nghi hoặc

 

 

( Người ấy liền khi đó, tâm nhớ lại được tám mươi bốn nghìn Hằng hà sa kiếp rõ biết cùng khắp, được không nghi hoặc.)

 

 

Giảng giải:

 

Khi Kim Cang Tạng vương Bồ tát thầm giúp người ấy phát huy trí huệ thì người ấy liền khi đó, tâm nhớ lại được tám mươi bốn nghìn Hằng hà sa kiếp rõ biết cùng khắp, được không nghi hoặc.

 

Họ hiểu biết rất rõ những sự việc xảy ra trong suốt quá khứ rất lâu xa. Trí không còn nghi ngờ. Điều ấy có nghĩa họ được định trong đời sống quá khứ, biết những gì đã xảy ra trong quá khứ.

 

 

Sutra:

When that response occurs, those people will be able to remember the events of as many kalpas as there are grains of sand in eighty-four thousand Ganges Rivers, knowing them all beyond any doubt.

Commentary:

When the Vajra Treasury-King Bodhisattvas invisibly open their spiritual awareness, when that response occurs, those people will be able to remember the events of as many kalpas as there are grains of sand in eighty-four thousand Ganges Rivers, knowing them all beyond any doubt. They know very clearly about everything that took place throughout such a long period of time. They have wisdom that has gone beyond doubt. This means they obtain the penetration of past lives. They know the things that happened in the past.



Kinh văn:

 

 

Tùng đệ nhất kiếp  nãi chí hậu thân sinh sinh bất sinh  dược xoa la sát cập phú đan na ca tra phú đan na cưu bàn đồ tỳ già đẳng tịnh chư ngạ quỷ hữu hình hình hữu tưởng tưởng như thị ác xứ

 

( Từ kiếp thứ nhất cho đến kiếp cuối cùng, đời đời người ấy đều không sinh vào các loại Dược Xoa, La Sát, Phú Đan Na, Ca Tra Phú Đan Na, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Già cùng các loài ngạ quỷ, có hình không hình, có tưởng, không tưởng, và những nơi dữ như thế.)

 

 

Giảng giải:

 

Từ kiếp thứ nhất cho đến kiếp cuối cùng, tức là đến khi thành Phật. Đời đời người ấy đều không sinh vào các loại Dược Xoa.

 

Họ vẫn còn tới lui sanh tử, nhưng không sanh vào các nẻo dữ như Dược Xoa, Tiệp Tật quỷ. Cũng không sinh vào La Sát, một loài quỷ dữ ăn thịt người. Khi có người chết, loài quỷ này dùng bùa chú làm cho xác chết thành thịt tươi sống và ăn lấy. Họ cũng tránh phải vào đường Phú Đan Na, xú ác quỷ.

 

Nếu quý vị gặp phải loài quỷ này, quý vị sẽ phát sốt ngay. Người ấy cũng không sinh làm Ca Tra Phú Đan Na, loài quỷ có mùi cực thối. Đấy là mùi hôi thối cực mạnh, chắc chắn là quý vị chưa từng biết đến. Nếu gửi phải sẽ bị nôn tháo tức khắc. Loài quỷ này cũng là nguyên nhân gây nên cảm sốt, cơn nóng sốt lên đến 120 độ hoặc cao hơn, sức nóng có thể đốt cháy cả xương người.

 

Người đó không sinh làm Cưu Bàn Trà, còn gọi là quỷ bí đao, loài quỷ chuyên hút tinh khí người. Khi quý vị ngủ, chúng hiện đến và hút lấy tinh khí, làm cho tê liệt đi. Quý vị có mở mắt ra tìm thì cũng chẳng động đậy hay nói năng gì được. Loài quỷ này rất hung dữ, chúng có thể giết người và hút lấy tinh lực.

 

Nếu một người có dương khí thịnh, chúng quay sang hút âm khí. Thế nào là dương? Dương ở con người có nghĩa luôn luôn hạnh phúc, thực sự hanh phúc trong tự tánh của quý vị, đấy là kinh nghiệm cực hỷ trong tánh sở hữu. Còn như tự tánh của mình lúc nào cũng lo buồn, rầu rĩ, bị nhiều áp lực, luôn chịu nhiều đau khổ dày vò, thì đó là âm.

 

Âm là thuộc tính của quỷ. Dương là thuộc tinh thần. Ưu thế của dương là tinh thần, ưu thế của âm là quỷ. Người tu học Phật có lực dương trong sạch và nhẹ nhàng. Đối với một người quá thịnh âm thì lực hắc ám. Người thiện họ có luồng khí trắng vây quanh, người xấu, ác thì quanh họ chỉ là hác ám, đen tối.

 

Người tụng thần chú này cũng không sinh làm Tỳ Xá Già…Tỳ Xá Già là loài quỷ ăn khí huyết con người. Đây là loài quỷ cực hung ác không có chút lương thiện. Hầu hết, quỷ là loài xấu, là ác, nhưng trong số cũng có quỷ nhân từ như Bồ tát, chẳng hạn như quỷ vương ra sức trừng trị các quỷ khác.

 

Họ không sinh vào cùng các loài ngạ quỷ. Đây là loại quỷ đói, có loài quỷ bụng rất to, có loài quỷ cổ họng nhỏ như cây kim. Có hình, không hình, vài loại có thân hình, có loại không thể nhìn thấy – chúng không có thân hiện thực. Loài quỷ ấy vô hình nhưng có ý thức, chúng ta không thể thấy. Nhưng nếu quý vị có ngũ nhãn (năm loại mắt: Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn) và lục thông (sáu loại thần thông: Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông…), ắt sẽ dễ dàng nhận thấy chúng.

 

Có tưởng, không tưởng, có vài loại khả dĩ suy tưởng, có loại không thể nghĩ tưởng, chúng như gỗ, như đá. Và một người trì tụng chú Lăng Nghiêm sẽ không sinh vào những nơi dữ như thế, từ đời này cho đến đời sau, họ không bao giờ sinh vào các nơi có quỷ đói, hoặc các loài quỷ khác.

 

Sutra:

From that kalpa onward, through every life until the time they take their last body, they will not be born where there are
yakshas, rakshasas, putanas, kataputanas, kumbhandas, pishachas and so forth; where there is any kind of hungry ghost, whether with form or lacking form, or with thought or lacking thought, or in any such evil place.

 

1)       Dược Xoa (Yakshas)

2)      La Sát (Rakshashas)

3)      Phú Đan Na (Putanas)

4)     Ca Tra Phú Đan Na (Kataputanas)

5)      Cưu Bàn Trà (Kumbhandas)

6)     Tỳ Xá Già (Pishachas)



Commentary:


From that kalpa onward, through every life until the time they take their last body, that is, when they become a Buddha, they will not be born where there are yakshas. They will be born and die again and again, but they will not be born in bad paths, such as that of the yakshas, "speedy ghosts". Nor will they get born where there are rakshashas, "terrifying ghosts" that eat people.

When a person dies, this kind of ghost uses a mantra to change the flesh of the decaying corpse back into fresh meat and eats it. Nor will they have to be around putanas, "bad-smelling ghosts", which are both evil and foul-smelling. If you encounter such a ghost, you will contract a fever. "Putanas" are also known as "bhutanas." Nor will such people be born where there are kataputanas, "strange smelling ghosts."

The other one smelled bad, but this one smells weird, an odor you've never smelled before, one that is incredibly strong. That's what's referred to by the phrase: "It smelled so strange one could not bear to breathe." If you get a whiff of this odor, it will make you vomit on the spot. It connects with the bad smelling stuff inside you, so that you have to regurgitate. You spit your insides out. It's that strong. This ghost causes fevers to an even greater degree of intensity. Your entire body burns with fevers up to l20 degrees and more; it simply burns your bones to ashes. Violent, wouldn't you say?

They won't be born where there are kumbhandas. Actually, all these ghosts have been mentioned before. The kumbhandas are "barrel-shaped ghosts." These ghosts paralyze people. They come on you in your sleep and paralyze you. You open your eyes to find that you can't move. Nor can you speak. At its fiercest, it can kill people with the paralysis. If a person has yang energy, then the paralysis won't hold. It only is effective on those who have excessive yin energy.

What is meant by yang? It means always being happy, truly happy in your self-nature, that is, not just laughing it up on the surface of things, "ha, ha, ha." It refers to the extreme bliss experienced in your inherent nature. If in your self nature you are always worried and depressed, being afflicted, upset, and distressed all day long, that belongs to yin. Those belonging to yin are the ones that ghosts can possess.

Yang belongs to the spirit. Predominance of yang is a spirit; predominance of yin is a ghost. People who cultivate the Buddha Path and have pure yang energy, also have light. But if one is totally yin, there is a black energy present. So, it can be told if a person is good or not just by looking at him or her. Good people have white energy around them; bad people have a mass of black energy, demonic energy.

They also will not be born where there are pishachas and so forth. Pishachas are "essence and energy-eating" ghosts. These ghosts sap the energy from things as well as from people. This kind of ghost is terrible and not at all good. For the most part, ghosts are bad, but among the path of ghosts are also Bodhisattvas who compassionately and deliberately manifest as ghost-kings in order to take ghosts across.

Nor will they be born where there is any kind of hungry ghost. There are many types of hungry ghosts. Some have huge stomachs. Some have throats as skinny as needles. Whether with form or lacking form. Some have bodies, and some are invisible, they have no physical form. But, just because you can't see something, don't assume it isn't there. Invisible creatures may lack form, but they have consciousness. You cannot see them with the ordinary eyes but if you have the five eyes and six spiritual penetrations, it is easy to see them.

With thought or lacking thought. Some have the capability of thought, while others have no thought; they are like dirt, wood, metal, and stone. But a person who upholds the Shurangama Mantra will not be born in any such evil place. Life after life, they will not be born in places where there are hungry ghosts or where there are any other kinds of evil.



Kinh văn:

 

Thị thiện nam tử nhược đọc nhược tụng nhược thư nhược tả nhược đới nhược tàng chư sắc cúng dường kiếp kiếp bất sanh  bần cùng hạ tiện bất khả lạc xứ

 

( Thiện nam tử đó, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc viết, hoặc chép, hoặc đeo, hoặc giữ, hoặc dùng nhiều cách cúng dường thần chú này thì kiếp kiếp không sinh vào các nơi bần cùng hạ tiện, không ưa thích.)

 

 

Giảng giải:

 

Thiện nam tử đó, hoặc đọc chú từ sách, hoặc tụng theo trí nhớ, hoặc viết cẩn thận, hoặc chép, hoặc đeo bên mình người ấy, hoặc giữ lại trong nhà, hoặc dùng nhiều cách cúng dường thần chú này, cúng dường chú Lăng Nghiêm do Hóa thân Phật tuyên thuyết, tốt nhất là dùng các loại hương, hoa, đèn, nến, trái cây.

 

Như vậy thì kiếp kiếp không sinh vào các nơi bần cùng hạ tiện, không ưa thích. Tôi từng nói, nếu quý vị nhớ rõ chú Lăng Nghiêm, tức tâm trí thông thuộc từng câu chữ thì khi trì chú, quý vị sẽ vào được chánh định. Tụng đọc được một cách lưu loát, trôi chảy, ít nhất quý vị cũng có được sức khỏe trong bảy đời.

 

Nếu quí vị liên tục tụng chú như vậy từ đời này đến đời sau, quý vị sẽ có sức khỏe trong bảy đời, hoặc bảy trăm, hoặc bảy nghìn, hoặc cả bảy triệu đời đều có được sức khỏe. Hẳn nhiên cũng không phải là cố định như vậy. Khi quý vị muốn mình là người khỏe mạnh rất nhiên sẽ được.

 

Có khi quý vị cảm thấy đầy đủ và hài lòng về chính mình, bởi vì các tỷ phú cũng có vấn đề riêng của họ mà chúng ta không thích. Khi quý vị có thể thành Phật, và một khi đã thành Phật rồi thì chẳng còn vấn đề gì. Đấy là:

 

Trong trạng thái như nhiên bất động.

 

Người mãi luôn ngời sáng rỡ ràng.

 

Một người trì chú và trân trọng bằng mọi cách sẽ không sinh vào các nẻo khổ, không có ưa thích. Quý vị không thể sa vào các nẻo như vậy, cho dù có muốn cũng không được.

 

Tại sao? Đấy là do chú Lăng Nghiêm thúc đẩy, nhắc nhở quý vị không được vào đường xấu, ác như thế.

 

Sutra:

If these good people read, recite, copy, or write out the mantra, if they carry it or treasure it, if they make offerings to it, then through kalpa after kalpa they will not be poor or lowly, nor will they be born in unpleasant places.


Commentary:

If these good people read the mantra from a book, or recite it from memory; if they copy it out respectfully, or casually write it out; if they carry it on their person, or treasure it, store it in their homes; if they make offerings to it of all kinds of incense and flowers, lamps, candles, and fruit, the Shurangama Mantra was spoken by a transformation body of the Buddha, so it is worthy of offerings, then through kalpa after kalpa they will not be poor or lowly, nor will they be born in unpleasant places.

I've told you that if you can memorize the Shurangama Mantra to the point that it flows forth from your mind and heart, then you have obtained the samadhi of holding the mantra. Once you obtain that, if you can recite it like flowing water which never ceases, then at the very, very least, you can be fabulously wealthy for seven lives. If you continue reciting it in this way for life after life, you can be wealthy for seventy or seven hundred or seven thousand or seven million lives; there's nothing fixed about it. As long as you want to be a wealthy person, you can be one.

But some day you may have had your fill, because even billionaires have their problems. You may get disgusted. Then you can become a Buddha. Once you become a Buddha, there are no more problems. At that point,

In a state of unmoving suchness,
You are ever bright and clear.

So, I'll give you a tip ahead of time. Being a billionaire is not as good as becoming a Buddha. People who uphold and venerate the mantra in these various ways will not be born in places that are worrisome and devoid of bliss. You could not go to those places even if you wanted to. Why? The Shurangama Mantra is pulling at you, telling you not to go. It will be impossible for you to go.


Chánh Định (Samadhi)



Kinh văn:

 

Thử chư chúng sanh túng kỳ tự thân  bất tác phước nghiệp thập phương Như Lai  sở hữu công đức tất dữ thử nhân

 

 

( Các chúng sinh đó, cho dù chính mình không làm việc thiện, mười phương Như Lai có các công đức đều ban cho người đó hết.)

 

 

Giảng giải:

 

Các chúng sinh đó, tụng và trì chú Lăng Nghiêm, cho dù chính mình không làm việc thiện, họ không bao giờ làm các việc thiện, hoặc có được phước lành nào, khi ấy, mười phương Như Lai có các công đức đều ban cho những người như thế.

 

Tại sao phải làm như vậy? Vì họ thọ trì  chú Lăng Nghiêm, hoặc đọc, hoặc biên chép… Tuy họ không có được phước lành nào, nhưng mười phương Như Lai có các công đức đều ban cho người đó hết.

 

 

Sutra:

If these living beings have never accumulated any blessings, the Thus Come Ones of the ten directions will bestow their own merit and virtue upon these people.

Commentary:

If these living beings who recite and uphold the Shurangama Mantra, have never accumulated any blessings, they've never done any good deeds or earned any blessings, then the Thus Come Ones of the ten directions will bestow their own merit and virtue upon these people. Why do they do that? Because these people recite the Shurangama Mantra, or read it, copy it, or write it out. They have no blessings, but the Buddhas of the ten directions give them blessings. A real bargain, wouldn't you say? All one must do is recite the Shurangama Mantra.


Kinh văn:

 

Do thị đắc ư Hằng sa A tăng kỳ bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp thường dữ chư Phật đồng sanh nhất xứ lượng công đức như ác xoa tụ đồng xứ huân tu vĩnh phân tán

 

 

( Do vậy, họ được trong những kiếp hằng sa A tăng kỳ không thể nói, không kể xiết, thường cùng chư Phật đồng sinh một chỗ, vô lượng công đức nhóm lại như quả ác xoa, cùng một chỗ huân tu, hằng không phân tán.)

 

 

Giảng giải:

 

Do vậy, họ được trong những kiếp hằng sa A tăng kỳ không thể nói, không kể xiết, thường cùng chư Phật.

 

Hằng sa là cát sông Hằng, chỉ số lượng rất nhiều. A tăng kỳ cũng là số lượng lớn, có nghĩa vô số trong ngôn ngữ Sanskrit.

 

Đồng sinh một chỗ, vô lượng công đức nhóm lại như quả ác xoa, cùng một chỗ huân tu, hằng không phân tán.

 

Sinh một chỗ không phải là cùng một nơi sinh, mà là sinh vào thời có Phật trong thế gian này. Một trong tám nỗi khổ là sinh trước hoặc sau khi có Phật. Sống vào thời có Phật tất sẽ có được vô vàn công đức. Quả ác xoa, mỗi chùm có ba quả liền nhau, không hể tách riêng ra được. Cũng vậy, những người sống nơi Phật cũng sẽ ảnh hưởng sự tu dưỡng, họ không bao giờ xa rời khỏi Phật

 

 

Sutra:

Because of that, throughout
asamkhyeyas of ineffable, unspeakable numbers of kalpas, as many as the Ganges' sands, they are always together with the Buddhas. They are born in the same place, due to their limitless merit and virtue, and, like the amala fruit-cluster, they stay in the same place, become permeated with cultivation, and are never parted.


A tăng kỳ (Asamkhyeya)

Quả ác xoa (amala)



Commentary:

Because of that, throughout asamkhyeyas of ineffable, unspeakable numbers of kalpas, as many as the Ganges' sands, they are always together with the Buddhas. "The Ganges' sands" indicates a large number. "Asamkhyeya" is also a large number; it means "limitless number" in Sanskrit.

This refers to kalpas greater in number than could ever be expressed. They are born in the same place, due to their limitless merit and virtue, and, like the amala fruit-cluster, they stay in the same place, become permeated with cultivation, and are never parted. "Born in the same place" refers not so much to having the same birthplace, as to being born in the same generation. That is, they are always born at a time when there is a Buddha in the world.

We are born at a time when there is no Buddha in the world. This is one of the eight difficulties: the difficulty of being born before or after the time of a Buddha. Those who are born when a Buddha is in the world are endowed with limitless merit and virtue. The amala fruit-cluster has three fruits on one stem. The fruits themselves are as if three and yet as if one. They cannot be separated one from the other. So, too, these people reside where the Buddha is and become infused with cultivation. They never have to be apart from the Buddha.



Kinh văn:


Thị cố năng linh  phá giới chi nhân giới căn thanh tịnh vị đắc giới giả linh kỳ đắc giới vị tinh tấn giả linh kỳ tinh tấn trí huệ giả linh đắc trí huệ bất thanh tịnh giả tốc đắc thanh tịnh bất trì trai giới tự thành trai giới

 

( Vậy nên, có thể khiến cho người phá giới mà giới căn cũng được thanh tịnh; người chưa được giới, khiến cho được giới, người chưa tinh tấn, khiến cho tinh tấn, người không trí huệ, khiến được trí huệ, kẻ chẳng thanh tịnh, chóng được thanh tịnh, kẻ chẳng giữ trai giới, tự thành có trai giới.)

 

 

Giảng giải:

 

Vậy nên, có thể khiến cho người phá giới mà giới căn cũng được thanh tịnh, ngay cả người phá giới cũng được giới trở lại nếu như người đó thật lòng trì tụng chú Lăng Nghiêm hằng ngày. Về căn bản, người nào phá giới sẽ không được cứu độ, nhưng nếu tụng chú này thì giới căn sẽ được thanh tịnh. Tụng ở đây không có nghĩa là đọc tụng cho qua, mà tâm ý quý vị phải hoàn toàn tịnh chỉ khi trì chú như tôi đã nói qua. Khi CHÚ KHỞI TỪ TÂM VÀ QUAY TRỞ VỀ TÂM quý vị, điều đó có nghĩa là:

 

TÂM TỨC LÀ CHÚ, CHÚ TỨC LÀ TÂM. CHO NÊN, GỌI LÀ "TÂM-CHÚ". 

 

 

Chú và tâm của quý vị trở thành một. Không có sự phân biệt đôi đường. Quý vì đừng quên, đấy là sự tự tụng Quý vị không tụng, nhưng nó vẫn đang tụng, quý vị đang tụng, nhưng hầu như quý vị không hiện diện. Ngay cả khi không muốn tụng, nó vẫn đang đọc tụng. Chúng ta đang nói về tụng chú trước khi giảng kinh, và đấy là cách CĂN BẢN ĐẠT CHÁNH ĐỊNH, đề ra một cách thức cho quý vị. Hẳn nhiên, đây cũng không hẳn là lúc giảng về chú Quý vị có thể tụng thần chú bất cứ lúc nào. Điều quan trọng là loại trừ đi mọi nghĩ tưởng để chỉ tập trung tâm ý, gọi là nhất tâm, là tâm chuyên nhất. Sự đọc tụng thành liên tục và không có suy nghĩ gì khác. Giống như dòng nước miên man xuôi chảy và con sóng này nối tiếp con sóng khác, như cơn gió thoảng qua không hình bóng, nhưng tất cả đều biết là nó đang hiện diện.

 

ỚC CHẢY, GIÓ THỔI,

ĐỀU TUYÊN THUYẾT GIÁO NGHĨA ĐẠI-THỪA.


Âm thanh của nước là gió nói lên giáo pháp Đại thừa, và tất cả đều là TÂM của thần CHÚ LĂNG NGHIÊM.

 

 

Người chưa tinh tấn, khiến cho tinh tấn, người không trí huệ, khiến được trí huệ, kẻ chẳng thanh tịnh, chóng được thanh tịnh, kẻ chẳng giữ trai giới, tự thành có trai giới.

 

Người chưa tinh tấn, chưa học hỏi nghiên cứu giáo lý Phật cũng có thể khởi phát sức mạnh do tụng chú Lăng Nghiêm một thời gian dài. “Người không trí huệ sẽ được trí huệ”. Xem thế, một kẻ có ngốc nghếch, tâm trí chậm lụt cũng được mở mang, sáng suốt.

 

“Kẻ chẳng thanh tịnh sẽ mau chóng được thanh tịnh”.

 

Nếu quý vị có tu dưỡng và chưa được thanh tịnh; nếu quý vị phá giới, bỏ ngang việc ăn chay, phạm sự bất tịnh một thời gian dài, nhưng nếu quý vị không quên tâm chú này, cũng vẫn mau chóng được thanh tịnh trở lại. Một khi muốn thay đổi, chúng ta sẽ được thanh tịnh. Tôi chẳng biết ở đây có nhiều vị thích học Phật, nhưng thân tâm chưa được thanh tịnh.

 

Điều đó cũng không sao, chỉ e là quý vị không chịu học. Vì nếu học, sẽ có lúc quý vị trở nên thanh tịnh. Còn như quý vị không chịu học, nói: “Tôi không muốn trở nên thanh tịnh, tôi không muốn mạnh mẽ. Tôi thích lười, tôi không biết gì hơn”.

 

Nếu thế thì chẳng còn gì để nói. “Đấy có thể là nguyên do người ta không trì trai để thành người ăn chay theo cách tự nhiên”. Nếu quý vị tụng chú Lăng Nghiêm đến độ tâm ý hoàn toàn chú định khi ấy, cả gió cũng chẳng thổi qua, mưa không sao thấm ướt. Chừng ấy, quý vị KHÔNG TRÌ TRAI thì quý vị vẫn tự động ĂN CHAY.

 

Tại sao? Vì tư tưởng quý vị không tản mạn, rời rạc, gốc rễ ham muốn không còn, những ưa thích ăn các món thịt, cá, không còn khuấy động tâm quý vị.



Sutra:

Therefore, it can enable those who have broken the precepts to regain the purity of the precept-source. It can enable those who have not received the precepts to receive them. It can cause those who are not vigorous to become vigorous. It can enable those who lack wisdom to gain wisdom. It can cause those who are not pure to quickly become pure. It can cause those who do not hold to vegetarianism to become vegetarians naturally.

Commentary:

Therefore, it can enable those who have broken the precepts to regain the purity of the precept-source. Even those who have broken the precepts can regain the precepts if they genuinely recite and uphold the Shurangama Mantra every day. Basically, someone who has violated the precepts cannot be saved, but if that person recites the Shurangama Mantra, it's possible for them to regain the purity of the precepts. Reciting doesn't just mean a casual recitation; you have to obtain the samadhi of holding mantras, as I just described. Then the mantra wells up from your heart and returns to your heart. That's what's meant by,

The Mantra-heart,
The Heart of the Mantra.
The Heart of the Mantra,
The Mantra-heart.

The mantra and your heart become one. There is no distinction between them. You cannot forget it; it recites itself. You are not reciting it, but it is being recited; you are reciting it, but it is as if you were not. Even if you don't want to recite it, it goes on being recited. Right now we recite the mantra before the sutra lecture, but that's just a way of preparing the ground for you. It's just pointing out the way for all of you.

It's certainly not that it's only appropriate to recite the mantra at lecture time. You can recite it anywhere at any time. To know it by heart and to recite to the point that all other false thoughts and scattered thoughts are wiped away, and all that remains is your mind's recitation of the Shurangama Mantra: that's what is called concentration. The recitation comes together and there are no other thoughts. It's like flowing water that goes on and on, coming from afar and rolling by in wave after wave. It's like the blowing wind which comes up invisibly but makes its presence known.

The water flows, the wind blows
Proclaiming the Mahayana.

The sounds of the water and wind speak the great vehicle dharma; they are all the heart of the Shurangama Mantra.

When recitation reaches that state, it can enable those who have broken the precepts to regain the purity of the precept source. It can cause those who have not received the precepts to obtain them. It can cause those who are not vigorous to become vigorous. People who aren't inclined to progress, who don't investigate the Buddhadharma, can spontaneously give rise to vigor from reciting the Shurangama Mantra over a long period of time. It can enable those who lack wisdom to gain wisdom. Just look at this: it can enable stupid people to open their wisdom. It can caus those who are not pure to quickly become pure.

If you cultivate and yet are not pure; if you violate the precepts, break the practice of pure eating, and get muddled and unclear for a long time; still, if you don't forget the Shurangama Mantra, you can quickly gain purity. Once you want to change, you can very quickly return to purity.

For instance, I know there are those among you here who would like to study the Buddhadharma, but whose bodies and minds are not pure. But it doesn't matter if you lack purity; it's just to be feared you won't study. Because if you study, the day will come when you'll suddenly become pure. You will soon understand.

But if you don't study, and you say, "I don't want to become pure; I don't want to be vigorous. I like being lazy. I'd rather not know anything" then with that attitude there's nothing that can be done for you. It can cause those who do not hold to vegetarianism to become vegetarians naturally.

If you recite the Shurangama Mantra until it comes together in a concentrated recitation, then the wind can't blow through and the rain can't penetrate. Then, even if you don't hold to vegetarianism, you will automatically do so. Why? Because you won't have any false thoughts, you won't have any greed or desires. You won't be thinking about wanting to eat meat or fish or delicious foods. It won't enter your mind.


Kinh văn:

 

A Nan thị thiện nam tử  trì thử chú thời thiết phạm cấm giới ư vị thọ thời trì chú chi hậu chúng phá giới tội vấn khinh trọng nhất thời tiêu diệt

 

 

(A Nan, thiện nam tử ấy, khi trì chú này, giả như có phạm giới cấm khi chưa thọ trì, thì sau khi trì chú, các tội phá giới, bất luận nặng nhẹ, một thời đều tiêu diệt.)

 

 

Giảng giải:

 

Đoạn này giải thích rất rõ ràng. A Nan, thiện nam tử ấy, khi trì chú này, giả như có phạm giới cấm khi chưa thọ trì. Nếu như hiện tại trì chú, nhưng trước đó từng phạm giới, phá giới, thì sau khi trì chú, các tội phá giới, bất luận nặng nhẹ, một thời đều tiêu diệt.

 

Tất cả mọi giới hạnh bất tịnh đều không còn, ngay cả bốn giới Ba la di cũng vậy Ba-la-di là một trọng tội không thể hối cải được. Nhưng nếu tụng chú Lăng Nghiêm, người ấy sẽ được bảo vệ và trở nên trong sạch, giống như nước sôi rưới vào nắm tuyết vậy.

 

Sutra:

Ananda, if good men who uphold this mantra violated the pure precepts before they received the mantra, their multitude of offenses incurred by violating the precepts, whether major or minor, can simultaneously be eradicated after they begin to uphold the mantra.

Commentary:


This passage gives a clearer explanation. Ananda, if good men who uphold this mantra violated the pure precepts before they received the mantra, if they uphold the mantra now, but violated the pure precepts in the past, breaking them before they received them, their multitude of offenses incurred by violating the precepts, whether major or minor, can simultaneously be eradicated after they begin to uphold the mantra.

All their offenses of breaking the practice of pure eating and of violating the precepts can be eradicated, even the four parajika offenses: "parajika" means "cause for dismissal" meaning that they cannot be repented of. But if you recite the Shurangama Mantra, then all the offenses you have committed, no matter how serious, will be made clean; it is like pouring boiling water over snow.


Ba-la-di (Parajika) là một trọng tội không thể hối cải được.



Kinh văn:

 

 

Túng kinh ẩm tửu thực đạm ngũ tân chủng chủng bất tịnh nhất thiết chư Phật  Bồ Tát kim cang  thiên tiên quỷ thần  bất tương vi quá

 

 

( Dù đã uống rượu, ăn thứ ngũ tân và các loại không sạch, tất cả các Phật, B tát, Kim Cang, Thiên tiên, Quỷ thần không cho đó là lỗi.

 

Giảng giải:


Ngũ tân là năm thứ: tỏi, hành, hẹ, kiệu, nén – là những loại gia vị phổ biến. Các loại này đều có hương vị nồng, ăn vào dễ PHÁT DÂM VÀ NÓNG TÍNH. Nhưng dù đã uống rượu, ăn thứ ngũ tân và các loại không sạch trước đó, khi đã trì chú thì tất cả các Phật, Bồ tát, Kim Cang, Thiên tiên, Quỷ thần không cho đó là lỗi. Quý vị thường tụng trì chú Lăng Nghiêm, các Phật, Bồ tát và Pháp sư đều KHÔNG TRÁCH quý vị trước đó là KHÔNG TRONG SẠCH.

 

Tại sao? Vì người thường trì chú LĂNG NGHIÊM, thì lần lần sẽ không thích các mùi, HÀNH, HẸ, TỎI, KIỆU, NÉN, UỐNG RƯỢU… cùng THỊT CÁ hôi tanh…

 

 

Sutra:

Even if they drank intoxicants or ate the five pungent plants and various other impure things in the past, the Buddhas, Bodhisattvas, Vajras, gods, immortals, ghosts, and spirits will not hold it against them.

Commentary:

The "five pungent plants" are leeks, garlic, shallots, scallions, and onions. These are the ones common to our area. Asafoetida, common in India and often found in curries is another pungent plant included in this list. Since these hot, pungent plants have unpleasant odors, they are prohibited in Buddhism for people who hold to pure eating practices. These are unclean kinds of things to eat and cause desire and anger.

But, even if they, the holders of the mantra, drank intoxicants or ate the five pungent plants and various other impure things in the past, the Buddhas, Bodhisattvas, Vajras, gods, immortals, ghosts, and spirits will not hold it against them. If you can constantly recite and uphold the Shurangama Mantra, the Buddhas, Bodhisattvas, and Dharma protectors will not blame you for your former impure habits. "If they won't hold it against me, then I can use these things as I please," you may reason. It's still best not to use them.


Kinh văn:

 

Thiết trước bất tịnh  phá tệ y phục nhất hành nhất trụ  tất đồng thanh tịnh túng bất tác đàn bất nhập Đạo Tràng diệc bất hành Đạo tụng trì thử chú hoàn đồng nhập đàn hành Đạo công đức hữu dị

(Dù có mặc y phục cũ rách không sạch, thì việc đi, việc đứng thảy đồng như thanh tịnh; dù chẳng lập đàn, chẳng vào đạo tràng, cũng chẳng hành đạo mà trì tụng chú này, thì công nhức cũng như vào đàn, hành đạo, chẳng có khác gì.)

 

Giảng giải:

 

Dù có mặc y phục cũ rách không sạch, thì việc đi, việc đứng.

 

Trong đoạn trước, nói về đạo tràng, Đức Phật có dạy phải mặc y mới, nhưng ở đây Ngài lại bảo điều đó không cần thiết. Nếu không có y mới thì cứ mặc y cũ. Khi quý vị thực hành tu tập trong suốt ba tuần, quý vị cũng sẽ trở nền trong sạch.

 

Bởi vì năng lực thần chú sẽ làm cho y phục mới hoặc cũ đều được trong sạch. Quý vị sẽ ngạc nhiên – vậy tại sao Phật lại bảo phải mặc y mới khi vào đàn. Thực sự, chúng ta mặc y mới là thể hiện lòng tôn kính, sự tôn kính tuyệt đối THÌ ĐƯỢC THANH TỊNH trong sạch.

 

Dù chẳng lập đàn, chẳng vào đạo tràng.

 

Quý vị không cần thiết phải vào đạo tràng, việc tu tập có thể bất kỳ nơi đâu, bất kỳ lúc nào. Cho dù cũng chẳng hành đạo, ngay cả không tu dưỡng, mà trì tụng chú này, đấy là tất cả những gì mọi người có thể tu tập, thì công nhức cũng như vào đàn, hành đạo, chẳng có khác gì.

 

Nếu quý vị tụng chú Lăng Nghiêm thì công đức của quý vị chẳng khác gì vào đàn tràng hành đạo vậy. Thực sự, cái đức của thần chú này là hết sức phi thường.

 

 

Sutra:

If they are unclean and wear tattered, old clothes to carry out the single practice and single dwelling, they can be equally pure. Even if they do not set up the platform, do not enter the Bodhimanda, and do not practice the Way, but recite and uphold this mantra, their merit and virtue will be identical with that derived from entering the platform and practicing the Way.

Commentary:


If they are unclean and wear tattered, old clothes to carry out the single practice and single dwelling, above, when the platform was described, the Buddha said that one should put on new clothes, but here he says one doesn't necessarily have to wear new clothes. If you don't have new clothes, old ones will do. When you go through the three weeks of practice, you can become pure just the same. Because of the power of the mantra, it makes no difference if the clothes you wear are new or old. The purity obtained is the same.

You may wonder why he said to wear new clothes in the first place. We wear new clothes to signify our respect, out of utmost reverence and absolute purity. Even if they do not set up the platform, do not enter the Bodhimanda, you don't necessarily have to be inside the Bodhimanda. Any place at any time is a place of practice. If they do not practice the Way, even if they don't cultivate, but recite and uphold this mantra, that's all they are able to do in the way of practice, their merit and virtue will be identical with that derived from entering the platform and practicing the Way.

If you can recite the Shurangama Mantra, your merit and virtue are no different from one who can set up the platform and enter the Bodhimanda to practice the Way. There is no distinction. Truly, the virtue of the Shurangama Mantra is inconceivable!


ĐỊNH-BÁO

 

 

( Là quả báo nhất định phải chịu, không thể chuyển biến được, bởi sức nghiệp đã quá thuần thục, trong mười phần thành tựu cả mười )

 



Thuở xưa vua Lưu-Ly cử binh đến đánh dòng họ Thích, Ðức Thế-Tôn can ngăn ba lần mà không được. Tôn-giả Mục-Kiền-Liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc thuộc, thì ngài bảo đó là
ĐỊNH NGHIP.

Tôn-giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm trăm người họ Thích trên cung trời. Nhưng khi Lưu-Ly-Vương dẹp xong hàng Thích-Chủng, thì năm trăm người ấy cũng đều thành huyết mà chết. Ðây là một sự kiện chứng minh sức định nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ.

Cho nên, chư Phật có  “Tam năng”
(ba việc làm được) và “tam bất năng” (ba việc không làm được).

Có ba việc làm được là :


1)       Chư Phật có thể “KHÔNG” tất cả tướng, thông suốt tất cả pháp.

2)      Chư Phật có thể biết cùng tận nghiệp tánh của chúng-sanh, rõ thấu tất cả việc 

                                  trong vô biên kiếp quá khứ và vị lai.

3)      Chư Phật có thể độ vô-lượng chúng-sanh.



Ba việc làm không được là :

1.        Chư Phật không thể diệt được định nghiệp của chúng-sanh.

2.       Chư Phật không thể độ những chúng-sanh vô-duyên.

3.       Chư Phật không thể độ hết chúng-sanh-giới.


Bởi thế, sc “NGƯỜI" cố nhiên là hữu hạn, nhưng sc "PHẬT" cũng không phải là TOÀN NĂNG.

Nếu chúng-sanh KHÔNG tín hướng Ðức Như-Lai, không thực hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng không thể hóa độ được.

Nếu chúng-sanh TÍN hướng Ðức Như-Lai, thực hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ-Tát cũng có thể hóa độ được.


NHƯ VUA LƯU-LY, NẾU NGHE THEO LỜI CAN NGĂN CỦA ĐỨC PHẬT, THÌ ĐƯƠNG SỐNG KHÔNG BỊ ĐỌA VÀO ĐỊA-NGỤC A-TỲ (  LÀ SỰ ĐAU KHỔ KHÔNG HỀ ĐƯỢC GIÁN-ĐOẠN). 

 

Cho nên, “NGHIỆP LỰC THÙ HẬN” của vua lưu-ly cũng thật sự  “BẤT KHẢ TƯ NGHÌ”, cho dù “ĐỨC PHẬT” cũng không thể ngăn cản được.


Tóm lại, nếu qúy vị thường trì tụng thần
CHÚ LĂNG NGHIÊM thì chuyển “ĐỊNH-NGHIỆP” thành “BẤT ĐỊNH NGHIỆP”; chuyển “VÔ DUYÊN” thành “HỮU DUYÊN” ; chuyển “CHÚNG SANH KHÔNG ĐỘ ĐƯỢC”  thành “CHÚNG  SANH ĐỘ ĐƯỢC” phải không ? 


“Quét sạch tất cả nghiệp chướng khó trừ trong vô số kiếp trước của qúi vị đã tạo.”


PHẬT HỌC TINH YẾU (HT. THÍCH THIỀN TÂM)

 

 

Kệ tụng:

 

Thủ nhãn thông thiên đại tổng trì
Chấn động tam thiên thế giới thì
HỮU DUYÊN VÔ DUYÊN hàm nhiếp hóa
Từ bi phổ độ Diêm-phù-đề

 

 

CHÚ ĐẠI-BI GIẢNG GIẢI (HT. THÍCH TUYÊN HÓA)

Kinh văn:

 

Nhược tạo ngũ nghịch  gián trọng tội cập chư Tỷ Khưu Tỷ Khưu Ni tứ khí bát khí tụng thử chú như thị trọng nghiệp do như mãnh phong  xuy tán sa tụ tất giai tiêu diệt cánh hào phát

 

 

( Dù gây tội nặng như ngũ nghịch, vô gián và phạm những tội tứ khí, bát khí của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni; khi tụng chú này rồi thì như cơn gió mạnh thổi tan đống cát, mọi nghiệp nặng như vậy đều diệt trừ dứt, chẳng còn chút mảy may gì.

 

Giảng giải:

 

Dù gây tội nặng như ngũ nghịch, vô gián. Trong Phật đạo có năm tội rất nặng:

 

1.       Giết mẹ

 

2.     Giết cha

 

3.     Giết bậc A-la-hán

 

4.     Phá hòa hợp Tăng

 

5.     Làm thân Phật chảy máu.

 

Nếu làm tổn thương thân Phật bằng con dao, hoặc vật nhọn, hoặc bất cứ thứ gì làm chảy máu thân Phật, đều phạm tội rất nặng.

 

Tôi không còn thấy Phật. Đức Phật đã rời khỏi thế gian, vậy tôi không phạm vào lỗi này”.


Không phải vậy, bởi vì bôi xóa hoặc phá vỡ hình ảnh Phật, cũng gọi là làm chảy máu thân Phật. Ngay cả ảnh Phật cũng vậy. Sự hủy họa hình ảnh Phật khi Ngài không còn tại thế cũng phạm tội.

 

 “Vô gián” là hậu quả của trọng tội. Kẻ phạm tội sẽ bị mười con quỷ đưa đi trừng phạt, nhưng phạm phải năm tội nặng như đã nêu thì sự trừng phạt rất khốc liệt, kẻ ấy tất phải vào ngục vô gián. Loại địa ngục này tôi cũng đã nói qua. Ở đấy có rất đông tội nhân, do đó nên còn gọi là “vô gián”, tức không có khoảng trống. Gọi là vô gián vì tội nhân liên tục chịu khổ đau, không bao giờ dừng dứt.

 

Phạm những tội tứ khí, bát khí của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni có ba nghĩa:

 

1.       Khất sĩ.

2.     Bố ma

3.     Phá phiền não

 

 

Tỳ kheo ni là thành viên nữ trong Tăng già. Có bốn tội Ba-la-di là:

 

1.       Dâm

 

2.     Sát

 

3.     Đạo

 

4.     Vọng ngữ

 

Đấy là bốn giới căn bản. Nếu phạm phải bất cứ tội nào trong bốn giới ấy đều phải bị loại khỏi Tăng già đạo Phật. Điều ấy chẳng khác nào đem Phật phá vất xuống biển vậy. Bốn tội Ba la di thuộc về Tỳ kheo, đối với Tỳ kheo ni có tám tội Ba la di. Ngoài bốn tội thuộc Tỳ kheo, thêm bốn tội khác:

 

5.     Ma xúc

 

6.     Bát sự

 

7.     Phú tàng tha

 

8.     Bất tùy thuận.

 

Ma-xúc, theo giải thích của giới luật là: Đụng chạm vào thân thể phụ nữ khi có ý dâm. Đối tượng đụng chạm với ý dâm có thể là nữ, là nam, hoặc Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, người thế tục – đều phạm phải trọng tội. Nếu không có lòng ham muốn dâm dục thì không phạm giới.

 

Bát-sự, tức tám điều ngăn cấm trong Ba la di. Tỳ kheo Ni khi tiếp chuyện phải luôn ở nơi công cộng, thoáng đãng. Không được tiếp riêng một người đàn ông nơi vắng vẻ, hoặc phòng riêng. Nói chung, Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni – một nam, một nữ không được ở chỗ riêng với nhau. Khi phạm tội này, Tỳ kheo có phần nhẹ hơn Tỳ kheo Ni.

 

Phú-tàng-thaBiết đồng hữu phạm tội nhưng cố tình che giấu, không báo cho mọi người biết.

 

Bất tùy thuận: Theo luật người xuất gia, mỗi tháng có hai lần đọc tụng giới bản, vào ngày mồng một và ngày mười lăm trong tháng. Tỳ kheo Ni đọc tụng giới phải có Tỳ kheo chủ trì. Họ không được tự mình thuyết giới, nếu không làm đúng như vậy thì phạm tội Bất tùy thuận.

 

Nhưng nếu người đó phạm phải các tội nặng như vậy, khi tụng chú này rồi thì như cơn gió mạnh thổi tan đống cát, mọi nghiệp nặng như vậy đều diệt trừ dứt, chẳng còn chút mảy may gì.

  

Cho dù là phạm tội ngũ nghịch, phạm bốn tội, tám tội Ba la di, tụng thần chú này sẽ bay biến tất cả, như một cơn gió mạnh thổi tan đống cát. Đấy là năng lực phi thường của chú Lăng Nghiêm.

 

 

Sutra:

If they have committed the five rebellious acts, grave offenses warranting unintermittent retribution, or if they are bhikshus or bhikshunis who have violated the four parajikas or the eight parajikas, such heavy karma as this will disperse after they recite this mantra, like a sand dune that is scattered in a gale, so that not a particle remains.

Commentary:


If they have committed the five rebellious acts, grave offenses warranting unintermittent retribution, the five rebellious acts are the most serious offenses in all of Buddhism.

They are:

1. killing one's mother;
2. killing one's father;
3. killing an Arhat;
4. causing schisms in the harmonious Sangha;
5. shedding the Buddha's blood.

If you deliberately injure the Buddha's body with a knife or some such weapon, or if in some other way you draw blood on the Buddha's body, you have committed this offense.

"I've never even encountered a Buddha. The Buddha left the world, so I have no chance of committing this offense," you say. Not so, because to deface a Buddha image or break it is also called shedding the Buddha's blood. Even prints and paintings of Buddhas are included in this. To destroy images of the Buddha when he is not in the world is also included in this offense.

"Uninterrupted retribution" refers to the consequence of these offenses. Committing the ten evils brings a bad retribution, but committing the five rebellious acts results in a more severe punishment. If you commit the five rebellious acts, you will certainly fall into the Relentless Hell. This hell has been described before. It's full, whether there is one person in it or many people in it. Therefore, it is also called "unspaced," since there is no space in it. It's called unintermittent because the suffering never slacks off even for a second nor does it ever end. It goes on interminably. If they are bhikshus or bhikshunis who have violated the four parajikas or the eight parajikas. "Bhikshu" has three meanings:

1. mendicant;
2. frightener of Mara;
3. destroyer of evil.

A "bhikshuni" is a female member of the Sangha. The four
parajikas are:

1. sexual misconduct;
2. killing;
3. stealing;
4. making false claims.

These are the four fundamental precepts: "parajikas" in Sanskrit, "causes for dismissal" in English. If you commit any of these four, then you are dismissed from the Sangha of Buddhism. You are cast out of the great sea of the Buddhadharma. And you cannot re-enter. The four parajikas are for bhikshus. Bhikshunis have eight parajikas. They include the four for the bhikshus, plus:

5. touching;
6. the eight things;
7. covering;
8. not following.

The parajika offense of "touching" is described in the vinaya as "making contact with a woman while harboring thoughts of sexual desire." So whether it be a man, a woman, a bhikshu, or a bhikshuni, or a layperson, physical contact between people when there are thoughts of sexual desire is a violation. If one does not have thoughts of sexual desire, there is no violation of the precepts.

The parajika of "the eight things." A bhikshuni must always be in an open public place when she converses. She cannot go to a concealed place to talk or in a room where she would be alone with a man. In general, a man and woman alone cannot be alone together, be they bhikshuni or bhikshu. For a bhikshu this is a lighter offense; for a bhikshuni it is a heavy one. It is forbidden that a bhikshuni talk alone with a man.

"Covering" means concealing another's offenses. You hide someone else's grave offenses and are not frank and open about them. You don't tell anyone. That's also a parajika offense for bhikshunis.

"Not following" refers to the recitation of precepts which takes place twice a month on the first and fifteenth of the lunar calendar. When bhikshus are present in a place where bhikshunis are, the bhikshunis must follow along with the recitation of the precepts by the bhikshus. They cannot recite the precepts themselves and take personal offerings. If they don't accord with this method, they violate this precept of not following. These are the eight parajikas for bhikshunis.

But even for people who have committed such serious violations, such heavy karma as this will disperse after they recite this mantra like a sand dune that is scattered in a gale, so that not a particle remains. Even the five rebellious acts and the four and eight parajikas can be blown away by the recitation of the mantra, just as a strong wind blows away a sand dune so that it totally disappears. Not a hair's breadth of offense remains. This again shows the inconceivable power of the Shurangama Mantra.


Giới luật (Vinaya)

Comments

Popular posts from this blog