QUYỂN CHÍN
Hán dịch: Bát Thích Mật Đế
Việt
Dịch: Cư Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
ĐOẠN II
SẮC-GIỚI
"A-nan, tất-cả những người tu tâm trong thế-gian, không nhờ
Thiền-na, thì không có trí-tuệ.
Người nào giữ được cái thân không làm việc dâm-dục, trong lúc
đi, lúc ngồi, đều không nghĩ-nhớ, lòng ái-nhiễm không sinh, không còn ở trong
Dục-giới, thì bản-thân liền được làm phạm-lữ; một loài như thế, gọi là
Phạm-chúng-thiên.
Tập-quán ngũ-dục đã trừ rồi, tâm ly-dục hiện ra, vui-vẻ thuận
theo các luật-nghi, thì người đó liền có thể thực-hành những phạm-đức; một loài
như thế, gọi là Phạm-phụ-thiên.
Thân tâm hoàn-toàn thanh-tịnh, uy-nghi không thiếu, cấm-giới
trong-sạch, lại có thêm trí-sáng, thì người đó liền được thống-lĩnh phạm-chúng,
làm đại-phạm-vương; một loài như thế, gọi là Đại-phạm-thiên.
A-nan, ba loài-tốt đó, tất-cả khổ-não không bức-bách được; tuy
không phải chân-chính tu phép Tam-ma-đề của đạo Phật, nhưng trong tâm
thanh-tịnh, những lầm-lạc của Dục-giới không lay-động được, nên gọi là
Sơ-thiền.
A-nan, thứ nữa, các hàng phạm-thiên khi thống-lĩnh phạm-chúng,
lại tu-tập phạm-hạnh được viên-mãn, làm cho tâm đứng-lặng không lay-động, và do
sự đứng-lặng ấy, sinh ra sáng-suốt; một loài như thế, gọi là Thiểu-quang-thiên.
Hào-quang sáng-suốt thêm nhiều, chói-sáng không cùng, ánh vào
thập phương thế-giới đều thành trong-sáng như ngọc lưu-ly; một loài như thế,
gọi là Vô-lượng-quang-thiên.
Nắm-giữ hào-quang viên-mãn, tạo thành giáo-thể, phát ra sự
giáo-hóa thanh-tịnh, ứng-dụng không cùng; một loài như thế, gọi là
Quang-âm-thiên.
A-nan, ba loài-tốt ấy, tất-cả lo-buồn không bức-bách được; tuy
không phải chân-chính tu-hành phép Tam-ma-đề của đạo Phật, nhưng trong tâm
thanh-tịnh, những lầm-lạc thô-động đã dẹp xuống, nên gọi là Nhị-thiền.
A-nan, những loài trời như thế, khi dùng hào-quang viên-mãn làm
việc giáo-hóa, do sự giáo-hóa càng rõ lẽ nhiệm-mầu, phát ra hạnh tinh-tiến,
thông với cái vui yên-lặng; một loài như thế, gọi là Thiểu-tịnh-thiên.
Cảnh thanh-tịnh hiện-tiền, dẫn-phát không có bờ-bến, thân tâm
được khinh-an, thành cái vui yên-lặng; một loài như thế, gọi là
Vô-lượng-tịnh-thiên.
Thế-giới và thân tâm, tất-cả hoàn-toàn thanh-tịnh, đức
thanh-tịnh được thành-tựu, cảnh-giới thù-thắng hiện-tiền, dồn về vui yên-lặng;
một loài như thế, gọi là Biến-tịnh-thiên.
A-nan, ba loài-tốt đó, đầy-đủ công-hạnh đại-tùy-thuận, thân tâm
yên-lặng, được cái vui vô-lượng; tuy không phải chân-chính được phép Tam-ma-đề
của đạo Phật, nhưng trong tâm yên-ẩn, hoan-hỷ được đầy-đủ, nên gọi là
Tam-thiền.
A-nan, lại nữa, những loài trời đó, thân tâm không bị bức-bách,
nguyên-nhân của khổ đã hết, lại xét cái vui không phải thường-trụ, lâu rồi cũng
phải tiêu-tan, nên cả hai tâm khổ và vui, đồng-thời đều phóng-xả; những tướng
thô-nặng đã diệt, thì phúc thanh-tịnh sinh ra; một loài như thế, gọi là
Phúc-sinh-thiên.
Tâm phóng-xả được viên-mãn, sự nhận-hiểu cao-xa càng thanh-tịnh;
trong cái phúc không gì trở-ngại đó, được sự tùy-thuận nhiệm-mầu cùng-tột
vị-lai; một loài như vậy, gọi là Phúc-ái-thiên.
A-nan, từ cõi trời đó, có hai đường trẽ : Nếu dùng cái tâm
sáng-suốt thanh-tịnh vô-lượng trước kia, mà tu-chứng an-trụ nơi phúc-đức
viên-mãn sáng-suốt, thì một loài như thế, gọi là Quảng-quả-thiên.
Nếu nơi cái tâm trước kia nhàm-chán cả cái khổ và cái vui, lại
nghiền-ngẫm cái tâm phóng-xả, tiếp-tục không ngừng, đi đến cùng-tột sự
phóng-xả, thân tâm đều diệt hết, ý-nghĩ bặt mất, trải qua năm trăm kiếp; song,
người ấy đã lấy cái sinh-diệt làm nhân, thì không thể phát-minh tính không-sinh-diệt,
nên nửa kiếp đầu thì diệt, nửa kiếp sau lại sinh; một loài như thế, gọi là
Vô-tưởng-thiên.
A-nan, bốn loài-tốt ấy, tất-cả những cảnh khổ vui trong thế-gian
không lay-động được; tuy không phải là chỗ bất-động chân-thật của đạo vô-vi;
song, nơi cái tâm hữu-sở-đắc, công-dụng đã thuần-thục, nên gọi là Tứ-thiền.
A-nan, trong đó, lại có năm bậc Bất-hoàn-thiên, các vị này đã
diệt hết tập-khí chín phẩm tư-hoặc trong cõi dưới rồi, khổ vui không còn, bên
dưới không có chỗ ở, nên an-lập chỗ ở nơi chúng-đồng-phận của tâm phóng-xả.
A-nan, khổ vui cả hai đều diệt, không còn tâm-niệm ưa-ghét; một
loài như thế, gọi là Vô-phiền-thiên.
Tự-tại phóng-xả, không còn năng-xả, sở-xả; một loài như thế, gọi
là Vô-nhiệt-thiên.
Khéo thấy thế-giới mười phương thảy đều đứng-lặng, không còn
tất-cả những cấu-nhiễm trầm-trọng của trần-cảnh; một loài như thế, gọi là
Thiện-kiến-thiên.
Tri-kiến thanh-tịnh hiện-tiền, sử-dụng được không ngăn-ngại; một
loài như thế, gọi là Thiện-hiện-thiên.
Quán-sát rốt-ráo các cực-vi, cùng-tột tính của sắc-pháp, vào
tính không bờ-bến; một loài như thế, gọi là Sắc-cứu-kính-thiên.
A-nan, những bậc Bất-hoàn-thiên đó, chỉ riêng bốn vị thiên-vương
Tứ-thiền được có kính-nghe, nhưng không thể thấy-biết; cũng như hiện nay, có
các thánh-đạo-trường nơi rừng sâu đồng rộng thế-gian, đều là những nơi trụ-trì
của các vị A-la-hán, nhưng những người thô-thiển thế-gian không thể thấy được.
A-nan, mười tám loài trời đó, tâm thường ở trong định, không
dính-dáng với trần-cảnh, song chưa hết cái lụy của hình-hài; từ đó trở về, gọi
là Sắc-giới.
ĐOẠN III
VÔ-SẮC-GIỚI
"Lại nữa, A-nan, từ chỗ cao nhất của Sắc-giới, lại có hai
đường trẽ. Nếu nơi tâm phóng-xả, phát-minh được trí-tuệ, trí-tuệ sáng-suốt
viên-thông, thì ra khỏi cõi trần, thành vị A-la-hán, vào Bồ-tát-thừa; một loài
như thế, gọi là Hồi-tâm-đại-a-la-hán.
Nếu nơi tâm phóng-xả, khi thành-tựu được sự phóng-xả rồi, lại
cảm-thấy cái thân làm ngăn-ngại và tiêu cái ngăn-ngại ấy vào hư-không, thì một
loài như thế, gọi là Không-xứ.
Các chất-ngại đã tiêu-trừ rồi, nhưng không diệt được cái
vô-ngại, trong đó chỉ còn thức A-lại-gia và còn nguyên-vẹn phần nửa vi-tế của
thứ Mạt-na; một loài như thế, gọi là Thức-xứ.
Sắc và không đã hết, cái tâm biết là hết ấy cũng diệt-trừ, mười
phương vẳng-lặng, không còn gì nữa; một loài như thế, gọi là Vô-sở-hữu-xứ.
Thức-tính vốn không lay-động, lại dùng cái diệt mà diệt đến
cùng; trong chỗ không thể hết, phát-minh nhận cho là hết, nên hình-như còn, mà
không phải còn, hình-như hết, mà không phải hết; một loài như thế, gọi là
Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ.
Bọn nầy xét cùng cái không, nhưng không tột lý-không; nếu từ
thánh-đạo cõi trời bất-hoàn mà xét-cùng, thì một loài như thế, gọi là
Bất-hồi-tâm-độn-a-la-hán. Nếu từ cõi trời vô-tưởng và ngoại-đạo mà xét-cùng cái
không, không biết trở về, mê-lầm không nghe Chính-pháp, thì sẽ vào trong
luân-hồi.
A-nan, trên các cõi trời đó, mỗi mỗi đều là những phàm-phu hưởng
sự báo-đáp của nghiệp-quả và khi sự báo-đáp ấy hết rồi, thì trở vào trong
luân-hồi. Thiên-vương các cõi kia, thường là Bồ-tát, dùng Tam-ma-đề mà lần-lượt
tiến lên, hồi-hướng về đường tu-hành đạo Phật.
A-nan, những cõi trời tứ-không đó, thân tâm diệt hết, định-tính
hiện-tiền, không có sắc-pháp của nghiệp-quả; từ đó đến cuối-cùng, gọi là
Vô-sắc-giới.
Bọn đó, đều do không rõ Diệu-giác-minh-tâm, chứa-nhóm cái vọng,
mà giả-dối phát -sinh ra ba cõi, giả-dối theo bảy loài trong đó, mà chìm-đắm và
cá-thể thụ-sinh cũng theo từng loài.
ĐOẠN IV
RIÊNG-NÓI THÊM VỀ BỐN GIỐNG
A-TU-LA
"Lại nữa, A-nan, trong ba cõi ấy, còn có bốn giống A-tu-la.
Nếu từ loài quỷ, do sức bảo-hộ Chính-pháp, được thần-thông vào
hư-không, thì giống A-tu-la này, từ trứng sinh ra, thuộc về loài quỷ.
Nếu từ cõi trời, đức kém phải sa-đọa, chỗ ở gần với mặt trời,
mặt trăng, thì giống A-tu-la đó, từ thai sinh ra, thuộc về loài người.
Có chúa A-tu-la, nắm-giữ thế-giới, sức-mạnh đến chỗ không phải
sợ ai, có thể tranh-quyền với Phạm-vương, Đế-thích và Tứ-thiên-vương; giống
A-tu-la này, nhân biến-hóa mà có, thuộc về loài trời.
A-nan, riêng có một số A-tu-la thấp-kém, sinh trong lòng biển
lớn, lặn trong thủy-huyệt, ban ngày đi chơi trên hư-không, tối về ngủ dưới
nước; giống A-tu-la này, nhân thấp-khí sinh ra, thuộc về loài súc-sinh.
MỤC VII - KHAI-THỊ
CHỖ HƯ-VỌNG CỦA BẢY LOÀI ĐỂ KHUYẾN-KHÍCH TU-HÀNH CHÍNH-PHÁP
ĐOẠN I
KHAI-THỊ CHỖ HƯ-VỌNG
"A-nan, xét-rõ bảy loài địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sinh, người
và thần-tiên, trời và A-tu-la như thế, đều là những tướng hữu-vi tối-tăm,
giả-dối tưởng-tượng thụ-sinh, giả-dối tưởng-tượng theo nghiệp; đối với tâm-tính
Diệu-viên-minh, bản-lai không năng-tác, sở-tác, thì đều như hoa-đốm giữa
hư-không, vốn không dính-dáng; chỉ một cái hư-vọng, chứ không có cỗi-gối
manh-mối gì.
ĐOẠN II
KHAI-THỊ VỀ NGHIỆP-NHÂN
"A-nan, những chúng-sinh đó, không nhận được tâm-tính
bản-lai, chịu cái luân-hồi như thế trong vô-lượng kiếp, mà không chứng được
chân-tính thanh-tịnh, đó đều do chúng thuận theo những sát, đạo, dâm, hoặc
ngược lại ba cái đó, thì lại sinh ra không-sát, không-đạo, không-dâm; có, thì
gọi là loài quỷ, không, thì gọi là loài trời; có và không thay nhau, phát-khởi
ra tính luân-hồi.
ĐOẠN III
CHỈ-TỎ SỰ TU-HÀNH CHÂN-CHÍNH
"Nếu khéo tu-tập phát-huy phép Tam-ma-đề, thì trong
bản-tính thường-diệu, thường-tịch, cả hai cái có, cái không đều không và cái
không có, không không cũng diệt, còn không có gì là bất-sát, bất-đạo, bất-dâm,
làm sao lại còn thuận theo được những việc sát, đạo, dâm.
ĐOẠN IV
TỔNG-KẾT VỀ QUẢ-BÁO ĐỒNG-PHẬN
"A-nan, không đoạn được ba nghiệp, thì mỗi mỗi chúng-sinh
đều có phần riêng, nhân những cái riêng ấy, mà quả-báo đồng-phận-chung của các
cái riêng, không phải là không chỗ nhất-định; đó là do vọng-kiến của tự mình
phát-sinh ra; hư-vọng phát-sinh vốn không có nhân, không thể tìm-xét nguồn-gốc
được.
ĐOẠN V
KHUYÊN ĐOẠN-TRỪ
"Ông khuyên người tu-hành, muốn được đạo Bồ-đề, cốt-yếu
phải trừ tam-hoặc; tam-hoặc không hết, thì dầu được thần-thông, cũng đều là
những công-dụng hữu-vi của thế-gian; tập-khí mê-lầm đã không diệt, thì lạc vào
đường ma; tuy muốn trừ cái vọng, nhưng lại càng thêm giả-dối; Như-lai bảo là
rất đáng thương-xót. Như thế, đều do vọng-kiến tự mình tạo ra, không phải là
lỗi của tính Bồ-đề.
Nói như thế ấy, tức là lời nói chân-chính; nếu nói khác thế, tức
là lời nói của Ma-vương".
TUYÊN HÓA THƯỢNG NHÂN giảng thuật
MỤC VIII - PHÂN-BIỆT
CÁC ẤM-MA
ĐOẠN I
NGUYÊN-DO KHỞI RA CÁC MA-SỰ
Khi bấy-giờ, đức Như-lai gần chấm-dứt thời thuyết-pháp, ở nơi
sư-tử-tọa, vin ghế thất-bảo, xoay về Tử-Kim-Sơn, trở lại dựa nơi ghế, bảo khắp
đại-chúng và ông A-nan rằng:
….
Comments
Post a Comment