Kinh Hoa Nghiêm

Phẩm Nhập Pháp Giới

Thứ ba mươi chín

Hán Dịch: Ðại Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà

Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh

 

 

( Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng Diễn giảng)

 

1. THIỆN-TÀI ĐỒNG-TỬ ĐI GẶP TỲ-KHEO ĐỨC-VÂN

2. THIỆN-TÀI ĐỒNG-TỬ ĐI GẶP TỲ-KHEO HẢI-VÂN

 


Feb 04, 1990


Hôm nay là buổi thuyết giảng đầu năm và cũng là buổi thuyết giảng thứ 101 về kinh Hoa Nghiêm tại chùa này.

Hôm nay, chúng ta sẽ đi vào phẩm “Nhập Pháp Giới.” Trong phẩm này, các vị thiện trí thức rất nhiều (53 vị), mà vị nào cũng vậy, nếu nói theo ngôn ngữ hơi… “thô lỗ” của thế gian thì vị nào cũng đều… “quái dị” cả. Nhưng mỗi lời của các ngài đều là những công án, nên vì vậy, xin quí vị về đọc trước cho dễ đi vào mạch kinh.

Phẩm Nhập Pháp Giới là một phẩm hết sức lạ lùng và có lẽ độc nhất vô nhị của kinh Phật. Không biết đối với quí vị ra sao, nhưng riêng tôi, nhiều khi đọc tôi thích thú như đang đọc một bộ tiểu thuyết kỳ diệu, lạ lùng và khó hiểu, đồng thời như mình đang đứng ngắm nhìn một giòng sông chảy trong đó toàn là kim cương mà không có cách nào lấy được những viên kim cương ấy. Bây giờ chúng tôi xin nói qua về chữ “Nhập Pháp Giới.” Thường thường trong các kinh khác, ngài chỉ nói đến chữ “Giải Thoát,” hoặc giới, định, huệ, giải thoát, hay giải thoát tri kiến mà thôi.

Nhưng kinh Hoa Nghiêm lại không nhấn mạnh ở chữ “Giải Thoát,” mà lại nói đến chữ “Nhập Pháp Giới.” Vậy thì mục tiêu tuyệt vời của giáo lý nhà Phật là gì? Là giải thoát hay nhập pháp giới? Và hai cái đó khác nhau ra sao??

Trong những kinh khác, thường thường đức Phật bao giờ cũng nhắc đi nhắc lại chữ giải thoát và giải thoát tri kiến, còn trong kinh Hoa Nghiêm thỉnh thoảng ngài nói đến chữ giải thoát nhưng ngài chỉ nói lược qua mà lại nhấn mạnh đến chữ “Nhập Pháp Giới.”

Để hiểu rõ hơn về bản hoài của chư Phật và chữ giải thoát lẫn nhập pháp giới, chúng ta phải trở lại nói lược về con đường tu của thanh văn và con đường tu của bồ tát.

Thường các Phật tử đi chùa, ai cũng nghĩ một cách đơn giản tu là phải giải thoát mà thôi. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ thì sự giải thoát còn thua xa so với sự nhập pháp giới. Theo những kinh của Nam Tông kể rằng: “có đức Phật ngồi dưới cây bồ đề đắc được ngũ thông, khi sao mai nổi lên ngài đắc được thiên nhãn thông, rồi thiên nhĩ thông, rồi tha tâm thông, thần túcthông, cuối cùng đến lậu tận thông.” Riêng Hoa Nghiêm thì lại nói khác hẳn, nói thập thông, thập định, thập nhẫn và nhập pháp giới. Vậy phải hiểu ý của chư Phật như thế nào???

Xin trích ra một đoạn ngắn tả về nhập pháp giới:

Kinh:

…Lúc đó đức Phật Thế Tôn ngự trên tòa sư tử này thành Vô Thượng chánh Đẳng Chánh Giác, trí Phật chứng nhập thời gian ba đời đều bình đẳng…

Giảng:

Bên Thanh Văn thừa, chỉ nói là có túc mạng thông, biết được một số những kiếp trước và vị lai. Nhưng đây lại nói đức Phật chứng nhập thời gian ba đời đều bình đẳng, tức là đã hóa giải thời gian.

Kinh:

…Thân Phật đầy khắp tất cả thế gian…

Giảng:

Nghĩa là đầy khắp pháp giới, ở đây, không gian cũng bị hóa giải, tức là thân và tâm Phật trùm đầy tất cả pháp giới: không có một cọng hoa nào nở ra, một hạt bụi nào rưới lên, một vi trần động đậy, một tâm niệm của chúng sanh, một tinh hà nở ra, một phiền não chúng sanh khởi lên mà ngài không biết. Vì TẤT CẢ đều ở trong tâm của ngài đó là ý nghĩa của chữ nhập pháp giới…

Khi một vị hành giả tu hành đến mức tâm mình lớn bao trùm tất cả vũ trụ này. Thí dụ như ta ngồi đây, thấy người đói rét mà ta không cảm thấy gì hết, có chăng một chút lòng ái ngại và thương xót rồi sau đó quên ngay. Tức là sao? Đó là tại tâm mình quá nhỏ, chỉ thu ở phạm vi cái gì “của mình” thôi. Nhưng đến khi nào quí vị cảm nhận rằng mình đau được cái đau khổ ấy, rét được cái rét đó, đói được cái đói đó, thì bắt đầu tâm của quí vị đã nới ra hơn một chút, và cho đến khi nào quí vị cảm thấy rằng bất cứ chúng sanh nào đau khổ hay vui mừng, mình cũng cảm nhận sự đau khổ, vui mừng đó y như họ vậy. Lúc đó tâm càng ngày càng lớn, về sau mình sẽ có thần lực, thân ngồi đây bất động, nhưng tâm bao trùm cả pháp giới này, không có vi trần nào mà thân tâm mình không đến được. Đó là nhập pháp giới…

Kinh:

…Thân Phật khắp đầy tất cả thế gian, tiếng Phật thuần khắp cõi nước mười phương, ví như hư không bao gồm tất cả các tướng…

Giảng:

Ý nói rằng thân và tâm Phật rộng lớn như hư không, lúc nào cũng thấm thâu khắp pháp giới.

Kinh:

…Đối với cảnh giới không có phân biệt…

Giảng:

Không phân biệt vì chỗ nào cũng là thân và tâm của mình cả.

Kinh:

…Lại như hư không cùng khắp bình đẳng trong tất cả quốc độ.

Giảng:

Vào trong quốc độ là vào trong tất cả vi trần, tinh hà.

Kinh:

Thân Phật thường khắp ngồi trong đạo tràng của chúng Bồ Tát, oai quang của Phật chói rỡ như mặt trời mọc lên soi sáng thế giới. Phước đức của Phật rộng lớn như biển cả đều đã thanh tịnh, mỗi đầu sợi lông đều có thể dung thọ tất cả thế giới mà vẫn không chướng ngại, đều hiện vô lượng thần thông giáo hóa điều phục chúng sinh…

Giảng:

Như vậy, kinh Hoa Nghiêm đều dính liền với tất cả thần thông, không có cách gì tách ra được. Vì nếu tách ra tức không hiểu gì hết. Vậy thì, thế nào là giải thoát? Thế nào là nhập pháp giới? Đồng thời, ta cũng phải lược lại lộ trình tu chứng của Thanh Văn thừa và lộ trình tu chứng của Bồ Tát đạo…

*

Thanh Văn tu cái gì, và tới cái gì? Niết Bàn là thế nào? Khi vào Niết Bàn các vị A La Hán đó có còn thân hay không? Và dùng tâm gì để tu? Chỉ, quán là chỉ quán cái gì? Còn Bồ Tát đạo thì các ngài tu ra sao và dùng cái gì để tu?

Bên Thanh Văn thừa, dùng trực tâm. Trực tâm là tâm ngay thẳng, không lệch lạc, một vị thanh văn giữ giới với một tâm không lệch lạc, chưa phải là Bồ Đề tâm. Còn con đường Bồ Tát đạo là dùng Bồ Đề tâm tức là tâm Bát Nhã và Đại Bi bình đẳng, là tâm chẳng có, chẳng không…

Chúng ta vốn là những Phật tử, nhất là đã đọc Hoa Nghiêm rồi, cần phải hiểu rõ thế nào là mục tiêu tuyệt vời của chư Phật. Đây, xin nói trước về lộ trình tu chứng của Thanh Văn thừa.

Một bên, Thanh Văn thừa dùng trực tâm, một tâm ngay thẳng, giữ giới, chưa biết được tâm Bồ Đề, Bát Nhã và Đại Bi, các ngài có 250 giới cho tỳ kheo, 348 giới cho tỳ kheo ni. Một bên, Bồ Tát thừa dùng tâm Bồ Đề, Đại Bát Nhã và Đại Bi, dùng tâm chẳng có, chẳng không. Ngoài những giới gần giống như bên Thanh Văn thừa, Bồ Tát còn có những giới khác như giới phải giữ Bồ Đề Tâm, giới phải tu đại thừa, giới nhiêu ích hữu tình .v.v… Sự khác nhau chỉ ở chỗ một đằng là đến chỗ giải thoát, nhập Niết Bàn cho riêng mình thôi (Thanh Văn), một đằng là đến chỗ nhập pháp giới trọn vẹn (Bồ Tát). Bồ Tát nhiều khi không nghĩ đến mình nữa, nên có nhiều vị cố tình để lại một ít kiết sử để thọ sinh lại trong các đường ác, và coi sự giải thoát cho chính mình là thứ yếu, mà chỉ cầu tới chỗ nhập pháp giới, mà tới chỗ đó thì tất cả mọi việc đều xong.

Quí vị sẽ thấy Niết Bàn của Thanh Văn rất khác với đại tịch diệt Niết Bàn của Như Lai. Và khi vào đại tịch diệt, hành giả sẽ có đủ thần lực kéo cả pháp giới đi đến chỗ cứu cánh.

Trở lại vấn đề giải thoát bên Thanh Văn. Xin đặt câu hỏi: Một hành giả tu theo Thanh Văn thừa là như thế nào? Giữ giới ra sao? Trong Thanh Văn thừa được chia ra hai phần: ngoại phàm, và nội thánh. Lúc đầu, một hành giả mới vào tu, trước hết hành giả phải tu ngũ đình tâm quán: đó là những môn để luyện tâm mình và đối trị những bệnh của mình. Ngũ đình tâm quán có năm thứ:

1/ Quán tâm bất tịnh: để cho nhàm chán cái thân này ra khỏi dục giới. Nếu còn đắm luyến thân này, thì hành giả chưa thể bước một bước — dù rất nhỏ — trên con đường Phật đạo. Phải biết thân này là máu mủ đờm rãi, không có gì là đẹp cả. Vì do tập khí cũ nên mắt không thể thấy gì khác ngoài cái da bao bọc ngoài thân.

2/ Quán nhân duyên: Đó là một loại quán cốt yếu của nhà Phật. Hành giả phải quán không có pháp nào là đơn thuần cả, đều do vô lượng nhân duyên hội tụ lại mà thành. Khoa học ngày nay cũng thấy rằng, trong các vi trần dù nhỏ đến đâu, như những hạt nhân, những trung hòa tử, những âm điện tử, dương điện tử v.v…, nếu đi sâu hơn nữa vào những vật ấy, họ lại có thể phân tách thành những vật khác. Họ lại tìm thấy những thứ gọi là “phản vật,” phản dương điện tử, phản âm điện tử, v.v… rồi thì liên miên biên hóa không ngừng. Nên khi tâm nhãn mình rọi soi đến đâu thì nó lại càng biến hóa trùng trùng đến đó mà không thể tìm được một vật nào đơn thuần hết. Vì vậy, kinh Phật mới dạy rằng: “Tất cả các pháp đều không có thực thể, đều là do vô lượng nhân duyên hội tụ mà thành.” Quán nhân duyên là một lối quán sơ bộ, nhưng rất quan yếu của tiểu thừa, đồng thời đó là một lối quán để nối liền với lối quán như huyễn của đại thừa.

3/ Quán từ bi: Chúng ta quán nhân duyên, bất tịnh để đối trị với tham dục của chúng ta, còn quán từ bi để đối trị sự sân hận. Khi một hành giả thấy rằng mình sắp sửa nổi sân lên vì một người nào đó, thì hãy khởi quán tâm từ, nghĩ rằng người đó cũng có nhiều điều đau khổ như mình vậy, và biết đâu họ đã lõi bõi đi qua bao nhiêu kiếp chìm nổi để có được thân người như ngày nay. Đại khái là như vậy.

4/ Quán giới phân biệt: Giới là sáu căn, sáu trần, sáu thức và tất cả giới đều do lục đại hòa hiệp mà thành, ở đây xin mở một dấu ngoặc là theo Thanh Văn thừa thì có sáu đại, nhưng trong kinh Lăng Nghiêm lại nói bảy đại: đất, nước, gió, lửa, hư không, thức, và kiến đại. Khi một hành giả luôn luôn quán như vậy, thì tâm càng ngày càng sắc bén hơn lên, thành cái gươm trí huệ, bất cứ pháp nào hành giả cũng có thể chia chẻ ra được. Như trong kinh tả ngài Xá Lợi Phất, không có một điều gì mà ngài nghe qua mà không hiểu. Nhìn thấy một người nào ngài cũng biết rằng người này vướng vào cái gì, có cái gì lợi căn và cái gì hại căn v.v…

5/ Quán sổ tức: sổ tức để ngừng tâm lại không để cho nó buông lung tán loạn, đó là một trong những pháp môn căn bản để bắt đầu.

Sau khi qua được giai đoạn tu ngũ đình tâm quán, (nhưng nhiều khi các vị THANH Văn chỉ tu một phần của ngũ đình tâm quán thôi mà cũng có thể bước qua phần khác được) thì các vị bước qua phần thứ hai. ở phần này, là một pháp môn tu nửa tiểu thừa, nửa đại thừa để bắt đầu cho những vị khởi tâm muốn qua đại thừa. Phần này tu tứ niệm xứ gồm có:

1/ Quản thân bất tịnh, cũng là pháp môn như trên. Nhưng trong đạo Phật, thường phải tu đi, tu lại một hạnh, hay một độ nào đó, vì nhiều khi, tu đến một mức nào đó lại phải tu sâu hơn nữa, vì tâm thức đi theo con đường vòng xoáy trôn ốc. Chẳng hạn như lúc đầu đã tu hạnh bố thí rồi, nhưng sau các vị lại trở lại tu bố thí, hoặc có ngài như ngài Vô Yểm Túc dạy tu từ tâm, sau đó lại có ngài Đại Quang cũng dạy tu từ tâm, nhưng ngài này dạy đi vào mức độ sâu hơn, (Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm nhập pháp giới, lúc ngài Thiện Tài đi gặp các vị thiện tri thức). Như chúng ta, đọc kinh một lần đầu đâu có thể hiểu ngay được, mà phải đọc đi, đọc lại 50, 60 lần mới mong hiểu chút phần, vì thế cứ phải xoáy dần sâu vô mãi…

2/ Thọ thì khổ. ở đây, hành giả ngồi quán chiếu mọi cảm giác của mình, thấy rằng bất cứ thọ cái gì cũng là khổ cả. Nhiều cái thọ thấy lúc đầu rất vui, nhưng sau cùng đều đưa đến cái thọ khổ. Thí dụ như ta mới được một cái xe mới, cảm giác lúc đó rất vui, nhưng sau lại phải đương đầu với lắm sự phiền nhiễu, tiền trả xe hàng tháng, tiền bảo trì, tiền bảo hiểm v.v… nghĩa là chuyện gì, lúc nào cũng chỉ đem đến cho ta nhiều lo lắng, phiền não, mà sự vui lại rất ít. Một thí dụ khác là ăn uống, lúc đương đói, ăn vào thì rất thích, nhưng sau đó, ăn no quá lại thấy nặng bụng, phải tiêu hóa, hoặc đau bụng, đó là chưa kể về già lại nhiều phiền não hơn nữa, có khi không đi cầu được chẳng hạn. Tóm lại, tất cả sự thọ đều là khổ.

3/ Tâm vô thường. Tâm đây không phải là diệu tâm đâu, mà là vọng tâm. Tâm tưởng của chúng sinh, đều thay đổi từng giờ phút, giây, ngay cả từng sát na một. Hôm nay có thể ta nghĩ thế này, mai lại nghĩ khác, hôm nay ta thích cái này, vài ba ngày sau lại chán cái đó ngay. Vì vậy nên tâm vô thường, nên pháp vô định…

4/ Pháp vô ngã. Mọi pháp đều không có cái gì là tự tánh của nó cả, nên gọi là pháp vô ngã.

Tóm lại, tất cả những phần tu nói trên đều là sơ bộ, cốt để tập cho tâm mình thuần thục một chút. Trong thời gian tu tập sơ bộ đó, đạo Phật lại chia làm bốn thứ bậc của ngoại phàm, (là những người còn lơ mơ ở ngưỡng cửa). Những vị này, sẽ chứng được bốn bậc: noãn, đảnh, nhẫn và thế đệ nhất.

— Noãn là hơi ấm, nếu một hành giả quán chiếu thân bất tịnh, quán lâu thì thấy nó đúng, giống như một người dùi cây lâu ngày thì nó bật lửa. Ở mức độ này, hành giả thấy một chút trí tuệ phát khởi nên gọi là noãn.

— Đảnh là sau khi dùi cây lấy lửa lâu rồi sắp được kết quả thì được đảnh. Đảnh tức là lên đến đảnh núi rồi, nhưng hành giả ấy vẫn chưa với được những cụm mây trên cao, đồng thời chân còn dính vào đất mà chưa bay bổng tuyệt vời được.

— Nhẫn đây là nhẫn của tiểu thừa thôi, chưa phải cái nhẫn lớn của vô sanh pháp nhẫn của các vị đại bồ tát. Trong đạo Phật rất lạ lùng, vẫn chỉ là một thứ thôi, nhưng sau lại chia ra đi vòng tròn xoáy trôn ốc lên. ở tiểu thừa chỉ nói một thứ nhẫn, nhưng lên đại thừa thì có cả mười mấy thứ nhẫn. Nhẫn của đại thừa đại khái như sau: Phục nhẫn, cho những vị mới tu thập tín, thập trụ. Phục nhẫn là dùng chữ nhẫn của mình để dẹp bớt những phiền não. Tín nhẫn là lòng tin sâu chắc khiến nhẫn chịu được các pháp, cho dù có ai chửi cũng không thấy giận nữa. Tùy thuận nhẫn, là thuận theo chân lý của đại thừa, và khi đã hiểu được chân lý đó thì có thể chịu được nhiều thứ pháp, đói không thấy sợ lắm, bệnh cũng không thấy sợ lắm, ngay cả đến sự chết cũng không thấy sợ. Vì sao, vì lúc đó hành giả đã hiểu rõ các pháp, hiểu rằng mình bất tử, không có cách gì có thể chết được cả. Đó chỉ là cái thân này chết thôi, còn luồng sức tâm không thể chết được.

***

Nhân đây, tôi cũng xin nói qua về cái “bất tử” của nhà Phật. Tất cả các đạo khác nhằm đến một sự bất tử rất hạn hẹp, giả dụ như tu tiên, muốn giữ hình hài này độ vài nghìn năm nhưng đó vẫn chưa đến chỗ bất tử rốt ráo, vì rồi hết hạn cũng phải chết. Đạo Phật cho rằng đó chỉ là sự bất tử hình tướng và thô kệch. Vì nếu đi sâu được vào thức ấm và dùng thức ấm liên tục nhớ từ kiếp này sang kiếp khác, dùng sợi dây ấy để làm “cái-gạch-nối-liền” đi qua các cõi, các kiếp để tạo nên cái bất tử của mình, thì đó mới thực sự là bất tử, là biến hóa tràn đầy thế gian mà không bao giờ có thể hết được. Khi đi sâu vào thức â’m thuần thục, hành giả chỉ cần khởi một niệm cũng có thể hiện bời bời nhiều sắc thân và trụ nhiều kiếp.

Như một người được vãng sinh Cực Lạc, có thể sống vô lượng kiếp nhưng không phải trụ ở thân máu mủ này đâu, mà có một thân hào quang của thức ấm. Nói tóm lại, bất tử của đạo Phật sâu xa vô cùng và vượt xa tất cả các đạo khác. Vì thế, ngày xưa có một vị sư tên Đàm Loan đi gặp một ông tiên và được ông cho một ít sách để tu tiên. Giữa đường, lại gặp một vị hòa thượng, được nghe hòa thượng đó tả nói về Tịnh Độ, ngài Đàm Loan hiểu được sự vi diệu, nên ngài đã quẳng sách tu tiên để tu theo Tịnh Độ và sau được vãng sanh.

Vô sanh pháp nhẫn là nhẫn của Bồ Tát đệ bát địa. Lúc này, bực Bồ Tát đã có nhiều thần thông biến hóa lắm rồi, nên không có pháp nào mà không nhẫn được.

Hư không nhẫn là chữ “nhẫn” của chư Phật, tức là đã hoàn toàn nhập pháp giới trọn vẹn.

Trở lại chữ nhẫn ở tiểu thừa, nó còn rất hạn hẹp, chỉ có thể chịu đựng được một số pháp thôi, như chuyện tham dục, bệnh tật v.v… Vì sự hiểu biết nhân duyên: bất tịnh, khổ, không, vô thường, vô ngã nên các vị đó có sự nhẫn chịu được một số pháp, nên tâm được một chút thong dong, tự tại.

4/ Thế đệ nhất, ở mức độ này, trong thế gian, hành giả phàm phu được phong làm đệ nhất của hàng người.

Sau khi đi qua bốn bậc đó gọi là tứ thiện căn, hoặc tứ gia hạnh, lúc này cá cvị tiểu thừa bước vào quán tứ đế: khổ, tập, diệt, đạo.

Quán tất cả pháp là khổ. Chúng ta nên nhớ rằng không có gì là không khổ. Như cái thân này chẳng hạn, phải bắt buộc qua bốn thời kỳ sanh, già, bệnh, chết. Đồng thời phải hiểu rằng có một trạng thái tâm thức gọi là Niết Bàn, mà trạng thái đó là trạng thái giải thoát, an lạc, tịch tĩnh… Nên các vị luôn luôn phải quán mấy thứ đó, không lúc nào quên và phải nhớ rành rẽ từng thứ một. Nhìn đâu cũng đều thấy là khổ, không, vô thường, vô ngã cả… duy Niết Bàn là an lạc, tịch tĩnh. Từ tâm tưởng đến trí thông minh của mình thật ra không hề có tác giả, không có thọ giả. Hiểu rằng tác giả, thọ giả đều là Ảo Vọng. Đồng thời, hiểu rằng mình sẽ đến một giai đoạn gọi là giải thoát mà trong đó tâm thức an lạc, tịnh tĩnh. Sau khi quán khổ như thế, lại quán tập, diệt, đạo.

Tập đế là tất cả nguyên nhân của sự khổ do tập khí cũ từ vô lượng kiếp, nên cần phải diệt tập khí đó đi để tu hành đến đạo quả, tức là Niết Bàn tịnh tĩnh. Trong kinh còn nói nhiều thứ phức tạp hơn, nhưng tôi chỉ tóm tắt cho quí vị biết được cái sườn tu của các vị Thanh Văn.

Ở đây, hành giả đã bắt đầu vào nội thánh rồi, có thể được bốn quả tiểu thánh, đồng thời cũng có thể được bốn thiền, bốn vô sắc định và diệt tận định.

Thế nào là quả thánh và thế nào là quả thiền? Có nhiều trường hợp hành giả tu được bốn quả thiền nhưng chưa được một quả thánh nào cả. Như đắc sơ thiền nhưng chưa chắc đã đắc được quả thánh Tu Đà Hoàn, (Xin nhắc sơ bốn quả tiểu thánh là Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hoàn, A Na Hàm và A La Hán). Khi bắt đầu có những quả thánh đó thì trong nhà Phật gọi là kiến đạo, sau đến chỗ tu đạo và sau cùng là vô học đạo. Còn tứ thiền là: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, và tứ thiền, rồi tứ vô sắc định là không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ. Cuối cùng là diệt tận định. Tóm lược là cửu thứ đệ định.

Bốn quả thánh và cửu thứ đệ định đều do tu thiền mà được. Nhưng có những vị đắc được tứ thiền như ngài Thiện Tinh Tỳ Kheo, có thể ngưng tim đập, bặt hơi thở, phóng quang, vào được xả niệm thanh tịnh địa (đệ tứ thiền), nhưng ngài không đắc một quả thánh nào cả, ngay cả quả thánh thấp nhất là Tu Đà Hoàn. Nên khi lâm chung, thấy chẳng vào được Niết bàn, vẫn thấy có thân trung ấm, nên ngài kinh ngạc kêu lên rằng: “Chư Phật đều nói lời hư vọng, chả có Niết Bàn gì cả.” Vì thế mà ngài bị đọa địa ngục.

Thiền là mức định lực nông sâu của mình, quả thánh là do diệt được những phiền não hữu lậu. Một vị hành giả tu thiền khá có thể ly dục và vào được sơ thiền, nhưng sân, si, nghi, mạn v.v… vẫn còn nhiều, chưa diệt được mấy đỗi, vì vậy mà chưa đắc quả thánh. Muốn đắc quả thánh thấp nhất phải diệt được một số kiến hoặc và tư hoặc. Tất cả bốn quả thánh bên Thanh Văn thừa đều căn cứ vào vấn đề diệt phiền não nhiều hay ít, còn thiền chỉ thuần do định lực mà có. Trong kinh thường nói có những kiến hoặc và tư hoặc mà các vị tu muốn đắc quả phải diệt.

Kiến hoặc là cái nhìn lệch lạc, tỷ dụ như thân kiến, biên kiến, giới cấm thủ kiến, chấp thủ kiến, và tà kiến.

Thân kiến là chấp có thân này do đó chấp có ngã, (cái ta). Biên kiến là nghĩ rằng các pháp có một biên giới rõ rệt như tự và tha, như một là có, hai là không, một là đoạn, hai là thường, một là có mình, hai là có người v.v… Không bao giờ hiểu rằng các pháp là chẳng có, chẳng không cả, là không quyết định, là tùy tâm người nhìn.

Giới cấm thủ kiến là những ngoại đạo thường hay lạc vào những giới cấm tà kiến. Chẳng hạn như nghĩ rằng, cứ tu bằng cách đứng co một chân như con cò rồi sau khi chết sẽ sanh thiên. Hoặc có vị nghĩ rằng phải hành hạ thân xác mình thật khổ sở, như nằm trên giường đinh, sống bẩn thỉu như một con chó — gọi là cẩu giới — hoặc kê giới, v.v… ăn thì không cầm tay, chỉ dục miệng vào bát để ăn, không đi đứng chỉ bò như chó, khi ngủ thì tìm mấy cái xó bẩn thỉu để ngủ v.v… Họ nghĩ rằng đày đọa thân này thì sau sẽ được sinh thiên. Phật Giáo gọi đó là giới cấm thủ kiến, tức là giữ một giới cấm rất lệch lạc, không thể đưa con người đến một sự giải thoát nào cả. Mà bên xứ Ấn, có rất nhiều trường hợp như vậy, nên chư Phật mới phải từ bi thị hiện ở bên đó.

Chấp thủ kiến là như ngài Thiện Tinh Tỳ Kheo, tu đến đệ tứ thiền rồi chấp là mình có sở đắc vào được Niết Bàn.

Chứ không hiểu rằng phiền não chưa diệt.

Tà kiến là tất cả sự nhìn lệch lạc của mình. Tỷ dụ như bên Ấn có một phái tuyên bố rằng chẳng có nhân quả nghiệp báo gì cả. Nên ai muốn làm gì thì làm v.v…

Hỏi: Xin ông nói rõ thêm sự khác biệt giữa biên kiến và tà kiến là thế nào?

Đáp: Biên kiến là chấp có, không, đoạn, thường, khứ, lai v.v… Nói cách khác, biên kiến là những thành kiến chấp có hai bên, chấp có cái này cái kia, chấp có ta, có người. Luôn luôn phải có đối tượng và chủ thể. Còn tà kiến là một cái chấp lệch lạc, như không có nhân quả nghiệp báo, v.v… Còn tư hoặc là những vọng tình ẩn sâu vào trong tâm thức, nó kết tụ bao nhiêu đời trước do những sự ái luyến suy tư, nó bền bỉ đan nhau từ kiếp này qua kiếp khác, chẳng hạn như tham dục, sân khuể, ngu si, nghi, mạn v.v… Đó cũng gọi là các mầm mống sinh tử nữa.

Trở về vấn đề thiền bên Thanh Văn thừa, những vị này trong khi tu tứ đế, diệt được phần nào kiến hoặc và tư hoặc, ít hay nhiều thì đạt được từ thấp lên cao bốn quả thánh. Đồng thời có thể đi vào thiền định từ sơ thiền đến tứ thiền, đến vô sắc định, diệt tận định, rồi vào đến không hải của thức ấm. Rồi vào Đại Thừa, hoặc dừng chân.

Nói về các quả, quả đầu tiên là Tu Đà Hoàn. Đắc quả này, người tu chỉ trở lại cõi dục bảy lần nữa, phải bảy lần làm người hoặc làm chư thiên, nếu tiếp tục tu thì mới đắc được quả A La Hán, rồi vào Niết Bàn tịch diệt. Còn Tu Đà Hàm (Nhất Lai), là chỉ trở lại cõi dục một lần thôi. A Na Hàm là những vị không trở lại dục giới nữa, các vị này khi chết đi không thọ sinh làm chư thiên cõi dục, hoặc làm người, chỉ trừ khi có nguyện độ sanh. Thường thường những vị này thọ sanh ở tầng trời sắc giới,  tầng trời này, không có tham dục và không có nam nữ. A La Hán là ra khỏi tam giới rồi, tức là dục giới sắc giới và vô sắc giới.

Muốn hiểu rõ hơn con đường tu thiền bên Thanh Văn thừa, tôi xin trở lại Lăng Nghiêm để ôn qua năm màn sương mù của năm ấm. Ta nên lưu ý rằng: khi tu theo Thanh Văn thừa vượt qua từ sơ thiền, nhị thiền, tam thiền đến tứ thiền lúc đó hành giả mới vào được đến thọ ấm và tưởng ấm mà thôi. Vì sao? Vì sơ thiền là ly sanh hỷ lạc địa, nhị thiền là định sinh hỷ lạc địa, tam thiền là ly hỷ diệu lạc địa. Mấy định này, chỉ cho sự vui sướng mà sự vui sướng ấy thuộc về cảm thọ. Như trong kinh vẫn nói rằng khi một vị Bồ Tát gieo mình vào miệng hổ đói, vị Bồ Tát đó thấy mình sung sướng như một vị Tỳ Kheo nhập đệ tam thiền vậy. Hoặc ngài Đề Bà Đạt Đa ngồi dưới địa ngục vui như một vị Tỳ Kheo nhập đệ tam thiền. Do đó, từ sơ thiền đến tam thiền thuộc về thọ ấm. Lên đến tứ thiền là xả niệm thanh tịnh địa, tức là vào được đến tưởng ấm, tứ vô sắc định là vào được đến hành ấm, đến diệt tận định là bắt đầu bước vào không hải, tức là vào thức ấm.

Do vậy, ta nên hiểu rằng trong kinh Hoa Nghiêm không thấy nói ngài Thiện Tài tu gì từ sắc ấm qua thọ ấm đến tưởng ấm cả. Vì ngài bắt đầu đã tu ngay trong thức ấm đó. Do đó, ta phải hiểu rằng, ngài đã thành tựu Không quán rồi. Chỉ còn học Giả quán và Trung quán thôi.

Đó là kim chỉ nam cho chúng ta hiểu đường đi của thiền định như thế nào. Vì vậy, ta thấy trong phẩm Nhập Pháp Giới, lúc Thiện Tài gặp vị thiện tri thức đầu tiên thì vị này lập tức dạy tu niệm Phật tam muội, tức là quán cái giả để đi sâu vào tột không nên phải quán đức Phật. Vì trong biển không đó hiện ra đức Phật. Đến vị thiện tri thức thứ hai thì dạy Thiện Tài quán biển tâm, mà trong biển đó mọc lên một hoa sen tức là pháp giới này vậy. Ở vị thiện tri thức thứ hai này, cũng vẫn dạy Thiện Tài quán giả, vị thứ ba là ngài Thiện Trụ Tỳ Kheo, dạy Thiện tài quán tâm khéo giữ giữa sắc và không, không có cũng không không, đó gọi là quán trung. Nên ta thấy rõ trình tự tu của Thiện Tài không hề đi qua sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hay hành ấm là vì trong kinh nói rõ: thân, ngữ, ý không có lỗi, tâm thanh tịnh như hư không. Có nghĩa rằng Thiện tài đã vào đến thức ấm rồi vậy.

Trở lại con đường tu của các vị Thanh Văn, sau khi các ngài vào được thức ấm rồi, thì đã được giải thoát chưa? Các ngài còn thân hay không thân?

Giải thoát có hai hình tướng, nếu các vị đó vẫn dùng sắc thân này đi vào thức ấm mà chưa mãn báo thân thì gọi là hữu dư Niết Bàn. Đến khi vị đó bỏ báo thân này, tự đốt thân mình thì luồng thần thức của các ngài đi vào chỗ gọi là vô dư Niết Bàn. Trong kinh tiểu thừa đức Phật thường dạy như vậy, các vị đó vào Niết Bàn như”củi hết lửa tắt,” ngài nói một cách rất mơ hồ, nhưng chúng ta cũng phải hiểu rằng, khi một vị A La Hán đã diệt hết phiền não rồi và dùng hỏa tam muội tự đốt thân mình thì thần thức của các ngài vào một nơi nào đó chưa cần phải nói đến, nhưng liệu các ngài có còn thân hay không, và Niết Bàn là thế nào?

Niết là không, Bàn là dệt. Không dệt sinh tử, vấn đề là ta phải hiểu từng tầng lớp quang minh, từ thô kệch gọi là sắc thân đến vi tế gọi là thức ấm. Khi các ngài diệt được hết phiền não thô kệch rồi, thì thân của các ngài được dệt bằng một quang minh vi diệu hơn, quang minh của thức ấm. Vì vậy trong kinh thường nói đến những khu vực mờ ảo mà ta chỉ có thể đoán thôi, trừ những vị tu chứng lên đến mức độ đó mới hiểu được dễ dàng. Trở lại vấn đề còn thân hay không thân của những vị A La Hán, nói rằng các ngài không còn thân là không còn cái thân phân đoạn sinh tử như chúng ta thôi, vì những mầm mống phiền não đã diệt rồi. Phiền não là những chủng tử mầm mống sinh tử “phụt lên” tạo nên một hình tướng thô kệch là cái thân phân đoạn sinh tử này. Đó là thân máu mủ bầy nhầy hoặc thai sinh, hoặc noãn sinh. Nhưng sau khi bỏ được thân phân đoạn sinh tử thì các ngài vẫn còn thân, gọi là thân biến dịch sinh tử, dệt bằng một thứ quang minh vi tế của thức ấm. Vì vậy, tất cả đại thừa là tu trong thức ấm để chuyển thành Bạch tịnh thức, trong khi tiểu thừa chỉ đến mấp mé, bắt đầu bước vào thức ấm thì dừng lại và cho rằng đã nhập Niết Bàn rồi. Tóm lại, Niết Bàn có thể nói đó là biển quang minh vi diệu của thức ấm, nên trong kinh có kể, các vị A La Hán độn căn ngồi trong đó, lâu dần, chư Phật lại phải khởi đại bi tâm, nhón tay đưa các ngài sang Cực Lạc, cho ngồi trong hoa sen nơi biên địa để tắm được quang minh của chư Phật vài ba kiếp mới có thể khởi được tâm đại bi, phát được lòng mong cầu nhất thiết trí, muốn tiến tu đến tuệ giác Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Tóm lại, tất cả con đường tu của Thanh Văn thừa chỉ tiêu diệt được phiền não chướng mà thôi, tức tham, sân, si, mạn, nghi, kiến, chứ chưa hề tiêu diệt được sở tri chướng. Còn bước sang Đại Thừa thì phải đi nốt con đường còn lại, tiêu diệt nốt phần sở tri chướng và những biến dịch sinh tử, chẳng hạn như những vọng tưởng về ta, về pháp giới, về tác giả, ngã giả, tri giả, kiến giả, thọ giả v.v… Tất cả đó là con đường của Đại Thừa, phải đi sáưvào biển diệu tâm ấy, phải diệt luôn ý tưởng có người chiếu soi cùng cảnh bị chiếu soi, phải nhập với pháp giới làm một, viên mãn, tròn đầy…

Tóm lại, chúng ta nên nhớ, phiền não chướng là vọng tình, lên đến tột cao thì vọng tình chuyển thành Đại Bi. Sở tri chướng là vọng tưởng, lên đến tột cao thì vọng tưởng chuyển thành Bát Nhã (trí sáng suốt). Nên trong kinh Lăng Nghiêm có dạy, nếu có bảy phần tình, ba phần tưởng thì đọa địa ngục, tưởng nhiều tình ít thì bay bổng lên cao…

Nay ta sang lộ trình tu chứng của các vị Bồ Tát…

Thông thường, các vị Bồ Tát mới tu cũng chập choạng vì nhiều khi chưa rõ được đường lối. Các vị cũng tu theo ngũ đình tâm quán, tứ niệm xứ, tứ đế, thập nhị nhân duyên v.v… Đến một ngày kia, đọc kinh hiểu và càng ngày càng thầm kinh thì bắt đầu bước vào thập tín. Cũng nên mở dấu ngoặc để giảng thêm chữ tín. Các vị này có tín tâm rất sâu chắc và một ít huệ tâm. Về định lực và giới lực thì thua xa một vị A La Hán, nhưng riêng về cái tín tâm, thì lại hơn ghê gớm lắm rồi, tin sâu chắc đến độ nở ra thành một căn gọi là tín căn. Vậy thì, các vị tin cái gì? Bên Thanh Văn, các ngài tin có Phật, có pháp, có giải thoát, có con đường tứ đế, từ khổ đế đến tập đế, đến diệt đế rồi đến đạo đế. Nhưng các ngài vẫn chưa hiểu rõ về pháp giới, mà đôi khi cũng không hiểu rốt ráo Phật là gì? Thường các ngài chỉ biết đến đức Phật Thích Ca thôi, mà chưa chắc đã biết đến đức Phật A Di Đà. Vì vậy các ngài mới chê là không có đức Quán Thế Âm, các ngài chưa hiểu cái lẽ một với nhiều, các ngài tu bằng cái tâm giữ giới và ngay thẳng, cốt tránh ác mà chưa biết những giới tích cực, chưa biết những giới nhiêu ích hữu tình giới v.v… Ngoài ra, các ngài rất nhàm chán cái thân máu thịt này, e sợ sanh tử, và đôi khi quay đầu lại nhìn pháp giới bời bời, thấy chúng sanh vô lượng thì tâm rất e ngại, nên không dám khởi đại bi tâm, không tin mình có thể độ hết được tất cả chúng sanh. Đó là một lòng tin còn hạn hẹp. Nhưng trái lại, các vị Bồ Tát ỏ bậc thập tín, tức là những vị mới bắt đầu bước chân vào con đường Bồ Tát đạo, tuy rằng không có định lực, nhưng các ngài có được một lòng tin rất ghê gớm, hơn hẳn các vị Thanh Văn. Vì các ngài hiểu rằng, tất cả pháp giới này chỉ là huyễn mộng, đều do duy tâm sở hiện, thứ nữa, các vị cũng tin rằng chính mình cũng là huyễn, đồng thời các ngài tin rằng chính Phật biến ra pháp giới này, và thân Phật nhập pháp giới hoàn toàn, đồng thời cả pháp giới này cũng đều là huyễn mộng mà thôi. Mục đích cuối cùng của các vị Bồ Tát là để nhập pháp giới chứ không phải chỉ để giải thoát nhập Niết Bàn cho riêng mình, chữ tín của Bồ Tát lớn lao như thế, nên ngài Hiền Thủ đã nói rằng:” …dù có một người đứng giữa không gian trọn mười kiếp hai tay bưng một quốc độ, không bằng công đức của người tin pháp này…” (tức là tin được lý như huyễn và duy tâm sở hiện). Nên những vị Bồ Tát ở thập tín này, tuy chưa cứu độ được mấy, nhưng đã dõng mãnh phát Bồ Đề Tâm, biết rằng tâm đó, một mặt là Bát Nhã, một mặt là Đại Bi, và chính cái tâm đó phát hiện ra pháp giới này, phải tu theo cái “huyễn tâm” đó để nhập pháp giới trọn vẹn, trong khi các vị vẫn tu thiền quán, cũng quán nhân duyên, quán từ bi, nhưng những thứ đó là sơ khởi để sau này bắc cầu lên đến quán như huyễn mà thôi. Từ thập tín, các ngài bước qua thập trụ để trưởng dưỡng về lý, và giữ được Bồ Đề Tâm không bị lung lay thối thát. Trụ là trụ Bồ Đề Tâm lại để trưởng dưỡng. Một vị Bồ Tát phải có một tín căn sâu chắc không có gì lay chuyển được, dù gặp tất cả các nạn nước, lửa, đói, khát cũng vẫn tin chắc về con đường tu của mình. Đó mới gọi là trụ được Bồ Đề Tâm. Qua đến Thập hạnh là các ngài đi vào sự, tức là mang cái Bồ Đề Tâm đó vào pháp giới, đi vào cuộc đời, đi vào tất cả cảnh giới. Rồi sang đến Thập hồi hướng là để xóa hết những vết tích giữa tự và tha, không có sự phân chia nữa, coi pháp giới này chính là mình và luôn luôn lúc nào cũng hồi hướng cho tất cả, và hiểu rõ rằng càng hồi hướng rộng lớn bao nhiêu thì cái ngã và phi ngã lại càng bị xóa bấy nhiêu. Mười hạnh là tu mười độ: bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ, nguyện, phương tiện, lực và trí. Tu đến thập hạnh thì các vị chưa đến được bốn độ sau cùng.

Tu đạo Phật vẫn là một lịch trình vòng tròn xoáy trôn ốc, vì tới chỗ Đăng địa, tức là vào Thập địa thì lại tu mười hạnh ấy, nhưng lên càng cao sự tu chứng càng sâu hơn. ở đây, tôi xin nhắc lại về vấn đề luận lý và biện chứng. Đạo học của Đông phương, nhất là đạo Phật, đó là một sự vận hành Tâm thức theo biện chứng chứ không phải theo luận lý, vì nhiều khi nó phi luận lý. Còn bên Tây phương chỉ biết có luận lý thôi, luận lý tức là đi theo cái ý thức thứ sáu hay phân biệt, còn biện chứng là vừa dùng thức thứ sáu liễu tri lại vừa dùng vô phân biệt trí. Vì vậy, luận lý của Tây phương là một luận lý nhị biên, chỉ có thể một là có, hai là không, một là trắng, hai là đen, một là thường, hai là đoạn v.v… mà không bao giờ biết cái phi có phi không, chỉ có biết đệ nhất cú (có) và đệ nhị cú (không) là cùng, mà không bao giờ biết đến đệ tam cú (cũng có cũng không) và đệ tứ cú (chẳng có chẳng không) cả. Còn bên Đông phương thì không đi đường thẳng như vậy mà đi vòng trôn ốc, đôi khi thấy nó rất tương khắc nhưng kỳ thực nó đều là tương sinh, tương duyên lẫn nhau, và bao giờ cũng đều có hai mặt, một mặt là luồng sóng ba động, một mặt là hạt tử. Mà phải hai mặt đi đôi với nhau mà không bỏ cái nào cả. Đó là biện chứng nhất như, là dùng cả hai lối phân biệt trí và vô phân biệt trí. Nên lên đến chỗ Đăng địa, thì tu lại mười hạnh trên. Sau này, ta sẽ lấy Thiện Tài đều đi trở lại những điều này, nhưng càng ngày càng đi sâu vào tột không cũng tức là đi sâu vào diệu hữu. Rồi sẽ lên đến Đẳng Giác, đẳng giác là tất cả pháp giới bình đẳng. Rồi lên Diệu Giác, là trạng thái như như tịnh tĩnh mà vẫn chiếu soi vằng vặc, giữ được tâm ở mức này là đến chỗ tuyệt vời, việc làm gần như đã xong. Vì ở bình diện này, tâm thức chuyển biến song chiếu giữa Bát Nhã và Từ Bi rất mau lẹ, như con thoi đi qua, đi lại, không ngừng ở bờ bên này, cũng không dừng ở bờ bên kia, cũng không ngừng ở giữa giòng, đó là việc làm của một bậc Đại Bồ Tát và chư Phật.

Tóm lại, Bồ Tát Đạo là ngoài việc diệt phiền não chướng, tức là vọng tình, đồng thời còn phải diệt thêm phần sở tri chướng là vọng tưởng vi tế. Như trong kinh, khi Thiện Tài đến dần những vị thầy cuối cùng, các vị này đều dạy Thiện Tài quán chiếu như huyễn cả…

***

Lại có mấy điểm mà chúng ta cần biết, trước khi đi vào kinh. Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh dạy về sự chuyển hiện của những ngằn mé chập chùng, thứ hai là nói về pháp giới đồng thời cũng là nói về cái tầm của chúng sinh.

Tại sao lại chuyển hiện ngằn mé chập chùng??

Những tài liệu khoa học ngày nay đã gần đi đến chiều hướng của Hoa Nghiêm, tức là chuyển hiện chập chùng ngằn mé, nhưng rất tiếc, họ vẫn chưa hiểu gì về đạo Phật, nên họ vẫn còn ngơ ngác và lạc lõng trong bước đi. chẳng hạn những nhà bác học ở Princeton, như wheeler và những nhà bác học lớn khác, họ chỉ hiểu gần gần như đạo Phật mà thôi, tức là đến mức “chẳng có chẳng không,” còn về đến cái ngằn mé vi tế thì họ thấy mờ mịt, không biết phải sao nữa. Có thể họ sẽ đi đến chỗ Tứ cú của đạo Phật nhưng chỉ một số rất ít. Nên biết rằng càng hiểu về đạo Phật, càng thấy tuệ giác của nhà Phật thật vi diệu, bao quát và lạ lùng. Tôi mới nhận được một cuốn sách nhan đề là la melodiedu secret của một người bạn bên Pháp gửi qua, tác giả là một người Việt tên là Trịnh Xuân Thuận. Viết rất thơ mộng, hiện giờ ông dạy ở trường đại học Virginia. Ông nói về khoa học cũng hơi giống như đạo Phật, ông dạy về Astro physic (Thiên văn học), ông nói rằng mỗi năm thường có nhiều tinh hà nở ra, một tinh hà có hằng triệu triệu tinh tú, triệu triệu mặt trời và trái đất mà chất hydrozen (khinh khí) chiếm gần hết cả pháp giới này, nhưng chất đó không có trọng lượng gì mấy, mà chỉ có chừng 2% chất đặc (sắc ấm) ở trong pháp giới này mà thôi. Ông phát biểu rằng: “Những giải tinh hà nở ra và cũng có những tinh hà khác cụp lại…” và đi đến kết luận rằng chất hydrozen kia hình như ở khoảng không mà ra. Rất tiếc, các nhà khoa học chưa biết gì về Hoa Nghiêm cả, nên nhiều khi gặp những trường hợp bị bế tắc mà không thể giải được. Nói đến nguyên tử thì ông bảo rằng đó vừa là sóng vừa là hạt. Lời nói này cũng tương tợ như lời dạy trong kinh là vừa là Bát Nhã, vừa là Đại Bi, khi nào hạt (hiện tướng) thì là đại bi, còn khi nào sóng (vô tướng) thì là bát nhã. Tất cả những thứ đó đều là ngằn mé của pháp giới này, vì nó luôn luôn chuyển động, nên không có một pháp nào là không chuyển động, và sự chuyển hiện đó là sự chuyển hiện giữa cái có và cái không, giữa cái lớn và cái nhỏ, giữa cái ẩn và cái hiện, từ chỗ phi thời gian ra có thời gian, từ chỗ không có không gian ra hiện tướng không gian và ngược lại, từ chỗ tận đến vô tận, từ chỗ phổ huyền môn đi vào chân thật tế, từ chỗ đồng thời ra chỗ thứ đệ, (thứ đệ tức là có thời gian rồi, còn đồng thời là không có thời gian), v.v… Vì vậy, mười huyền môn của Hoa Nghiêm là ở chỗ đó như huyền môn Quảng Hiệp Tự Tại Vô Ngại là từ lớn thành nhỏ, từ nhỏ thành lớn, huyền môn Đồng Thời Cụ Túc Tương ưng là ẩn hiện từ chỗ đồng thời đến chỗ thứ đệ v.v… Nên Hoa Nghiêm là sự biến hóa và ẩn hiện chập chùng, là kinh của pháp giới, là chuyển hiện giữa bát nhã và đại bi. Tất cả Hoa Nghiêm đều là Quang Minh và Diệu Âm mà ra. Quang minh tượng trưng cho không gian, làn sóng tượng trưng cho bát nhã. Diệu âm tượng trưng cho thời gian, cho đại bi và cho hạt tử. Tất cả quang minh và diệu âm đó đều trùng trùng từng lớp, mỗi một lớp quang minh đến một lớp diệu âm lồng vào nhau xoay vần miên viễn tạo nên vô vàn bông hoa, mà mỗi một chúng sanh đều là một bông hoa của pháp giới, những bông hoa đó lúc nở ra thành chữ hồng, lúc cụp lại thành chữ úm. Và lộ trình đó là lộ trình mà Thiện Tài đi qua, đôi khi ngài có thể là một vị Phật thị hiện, cũng có thể chỉ là một hành giả, cũng có thể là một trong chúng ta… Ngài đã vượt qua những chặng đường của sắc, thọ, tưởng, hành rồi, nên con đường đi này là con đường khởi sự đi vào thức ấm, khi thì ngài niệm Phật tam muội, lúc quán tâm, lúc thì quán giữa sắc và không, quán trung, bố thí, tu trì giới, tu đại từ, đại bi, đại hĩ, đại xả, lúc tu tất cả công nghiệp thế gian, nên không thể nhất định nói rằng ngài đi từ bậc sơ trụ, nhị trụ, v.v… Những vị bên Tầu hay cho rằng Thiện Tài đi gặp 52 vị thiện tri thức là qua 52 bậc tu chứng từ sơ trụ đến Đẳng Giác. Nhưng nếu ta xét từng vị thiện tri thức một, thì thấy có rất nhiều vị không dính dáng gì đến những thứ bậc tu ấy cả. Như vị đầu trong mười hạnh thì đáng lẽ Thiện Tài phải học bố thí, vị thứ hai phải dạy trì giới, vị thứ ba dạy tu nhẫn nhục v.v…, nhưng các ngài lại dạy Thiện Tài những thứ khác. Nên cần suy xét từng trường hợp một, vì ta chỉ thấy Thiện Tài tu những đại hỉ, đại xả, bát nhã phổ đắc, hoặc những chúng nghệ ở thế gian, tu toán số, những đà la ni, thần chú tức diệu âm, cuối cùng là tu như huyễn để trôi vào Đẳng Giác, rồi đến khi Thiện Tài gặp ngài Phổ Hiền thì nhập pháp giới. Nhưng đó chỉ là một lối nghĩ của chúng ta thôi, chưa dám chắc hẳn là đúng…

Hỏi: Có phải ý đức Phật trong kinh Hoa Nghiêm muốn đưa chúng ta nhìn ra ngoài không gian vô tận không? 

Đáp: Đúng, vì đây chính là kinh của không gian và thời gian, mà không gian và thời gian đều là trong tâm của chúng sinh, nó đều là vọng tưởng. Nhưng kinh không những chỉ giảng nói về không gian thời gian, còn bao trùm cả pháp giới nữa. Sự thực thì các pháp đều ẩn hiện lẫn nhau cả. Khoa học hiện cũng nhận được rằng khi nào thời gian chạy rất chậm lại thì không gian cũng co lại. Song những điều khoa học nói thì chỉ tạm thời đúng trong một giai đoạn, và khoảng năm, bảy năm sau lại đổi di chút phần, vì sao? Lúc đó nhãn lực của khoa học nới rộng ra được một chút thì thấy rằng những cái thuyết cũ không còn đúng nữa. Nên chỉ có lời kinh của các bậc Đại Giác mới hoàn toàn đúng, song, những lời dạy ấy chỉ như ẩn như hiện, chúng ta cần suy tư lâu ngày mới có thể hiểu được chút phần.

Sau đây, chúng ta đi vào phẩm Nhập Pháp Giới…

Kinh:

Bấy giờ đức Thế Tôn ở nước Thát La Phiệt trong trùng các đại trang nghiêm, tại rừng Thệ Đa vườn Cấp Cô Độc..

Giảng:

Ngay câu đầu này, kinh Hoa Nghiêm đã sang một cảnh giới khác, vì chúng ta nên nhớ rằng đầu kinh bắt đầu ở Bồ Đề Đạo Tràng. Sau đó, do thần lực của Phật, ngài nâng tất cả pháp hội lên dần đến đỉnh núi Tu Di ở tầng trời Đao Lợi, rồi lên tầng trời Đâu Xuất, rồi đến Tha Hóa Tự Tại, sau đó trở lại xuống Bồ Đề Đạo Tràng. Trong kinh này, chỉ có những vị Đại Bồ Tát vân tập, mà không có người dự. Riêng đến phẩm nhập pháp giới này, thì có người dự, nhưng lại xuất phát ở nơi khác, ở nước Thất La Phiệt, nơi trùng các đại trang nghiêm vườn cấp Cô Độc, xuất phát ở nhân thế.

Kinh:

Câu hội đến năm trăm Đại Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát v.v… (bỏ một đoạn kinh nói tên các vị Đại Bồ Tát),… năm trăm Đại Bồ Tát như vậy đến câu hội, những Bồ Tát này thảy đều thành tựu hạnh nguyện Phổ Hiền…

Giảng:

Thành tựu hạnh nguyện Phổ Hiền tức là gần đến bậc Đẳng Giác cả.

Kinh:

Cảnh giới vô ngại vì cùng khắp tất cả cõi Phật, hiện thân vô lượng vì thân cận tất cả Như Lai, tịnh nhãn vô ngại vì thấy tất cả sự thần biến của chư Phật, xứ đến vô hạn vì hằng khắp đến chỗ của tất cả Như Lai thành Chánh Giác, quang minh vô tế vì trí huệ quang chiếu khắp tât cả thật Pháp Hải, thuyết pháp vô tận vì thanh tịnh biện tài vô biên tế kiếp không cùng tận, khắp hư không giới không chỗ y chỉ…

Giảng:

Quang minh vô tế là quang minh không có bờ bến. Thật pháp hải là thật tướng của diệu tâm. Vô biên tế là cùng tận không có biên giới. Ở đây, kinh tả các vị Đạ i Bồ Tát đã đến tất cả cõi Phật, quang minh các ngài đều là vô tế gần như Phật.

Kinh:

Hàng Thanh Văn năm trăm vị câu hội…

Giảng:

Kinh muốn nói đến các vị Thanh Văn đã đến chỗ giải thoát mà chưa nhập pháp giới. Vì các vị đến chỗ giác ngộ chân đế, sau mới vào đệ nhất nghĩa đế, còn người phàm phu chúng ta là ở tục đế, vì chấp tất cả thế gian là có, còn các ngài Thanh Văn đến chỗ chân đế là đến chỗ không, đều chứng thật tế, nhưng chưa đến chỗ như như tịnh tĩnh. Thâm nhập pháp tánh nhưng chưa thâm nhập đến tột cùng, thoát hẳn biển hữu lậu, thoát được ba cõi để vào được thức ấm kia, nhưng vẫn chưa lặn sâu để trở thành Bạch Tịnh Thức, nên vẫn phải nương vào Phật công đức để lìa sự trói buộc của sở tri chướng và trụ chỗ vô ngại, (nhưng là chỗ vô ngại của Thanh Văn thừa thôi chứ chưa vào được chỗ vô ngại của các bậc Bồ Tát.)

Kinh:

Tâm các ngài tịch tĩnh như hư không, vào chỗ chư Phật dứt hẳn nghi lầm, nơi trí chư Phật tin sâu xu nhập…

Giảng:

Trong kinh, lời kinh hay dạy trùng nhau nên những người mới đọc kinh cứ hay bị lầm, chẳng hạn như “tâm các ngài tịch tĩnh như hư không…” nhưng ta phải hiểu rằng có nhiều mức độ nông sâu của tịch tĩnh.

Kinh:

Vô lượng thế chủ câu hội…

Giảng:

Vô lượng các vua cõi trời…

Kinh:

Những thế chủ này đều đã từng cúng dường chư Phật, thường hay làm lợi ích tất cả chúng sanh…

Giảng: Trong kinh Hoa Nghiêm, ở phẩm đầu đã kể tất cả các thế chủ, các ngài có những lợi ích gì đều kể hết cả. Nên chúng ta đều nằm trong các quang minh của các ngài luôn luôn được gia trì mà chúng ta không hay biết, tuy rằng gia trì theo sự chiêu cảm của nghiệp lực.

Kinh:

Làm bất thỉnh hữu…

Giảng:

Bất là không, Hữu là bạn. Bất thỉnh hữu là làm người bạn không mời, những vị Bồ Tát là như vậy. Nếu thấy người đáng được độ thì dù không mời thỉnh cũng cứ tới độ cho họ, ngược lại chỗ nào chưa đáng độ thì nhiều khi có mời cũng không tương ứng.

Kinh:

Hằng siêng thủ hộ thệ nguyện chẳng bỏ chúng sinh, đã nhập thế gian thù thắng trí môn. Từ Phật giáo sinh. Hộ tất cả chánh pháp. Phát đại nguyện chẳng để dứt Phật chủng. Sinh nhà Như Lai cầu nhứt thiết trí…

Giảng: Những vị thế gian chủ này nếu so với các vị Thanh Văn thì hơn rất nhiều, vì các ngài toàn là Bồ Tát thị hiện cả, nhưng thị hiện thọ sanh để cứu độ chúng sanh đáng được độ mà thôi.

Hỏi: Xin ông cho biết thế nào là vô niệm?

Đáp: Vô niệm không phải là không nghĩ gì cả, vì khi còn nghĩ thấy cái không đó tức là đã nghĩ rồi. Theo như thiền sư Thích Thanh Từ nói rằng khi thiền quán mà dứt được niệm thì gọi là vô niệm. Nhưng câu hỏi đặt ra rằng: mình có thể dứt được niệm không? Theo thiển ý của tôi thì như thế này, chúng ta không có cách gì tách rời được ý niệm cả, không có cách gì dứt được ý niệm cả, chỉ có cái là chúng ta đừng khởi vọng tình và vọng tưởng mà thôi. Đó gọi là vô niệm. Vì ngay đến chỗ thấy biết đến cái không thì vẫn còn ý niệm. Nói tóm lại, tâm thức của chúng ta không thể nào không có ý niệm, nhưng khi ta có cái ý “không” đó, ta không khởi vọng tưởng cùng vọng tình thì gọi là vô niệm, nên nhớ rằng, chúng ta luôn luôn có sự chiếu soi, không khời vọng tình yèu, ghét thì tạm gọi là dễ, nhưng không khởi vọng tưởng rất khó, vì vậy mới gọi là biến dịch sanh tử… Thực ra, chỗ đó là tột bờ mé, khó thể ức đoán…

Hỏi: Vậy trong kinh nói đến chỗ vô tưởng định thì sao?

Đáp: Đó là một lối diễn tả rằng hành giả đã dứt được những ý tưởng thô thôi, nhưng vẫn còn những ý tưởng vi tế. Lúc đỏ hành giả thấy được cái “không” đó, thì cái thấy đó là một ý tưởng vi tế, nhưng ý tưởng vi tế đó quá nhỏ, nên hành giả cho rằng không có. Lên đến mức định gọi là phi tưởng phi phi tường xứ, trong cơn định này tuy gọi là không tưởng nhưng vẫn có cái thấy, nơi đó vẫn còn có ý tưởng vi tế. Ở mức độ phàm phu chúng ta, không khởi những vọng tưởng thị gượng gọi là vô niệm, nhưng lên cao, đi trên con đường Bồ Tát thì cũng phải gột luôn cả ý niêm vi tế đó, chỗ đó thì rất mờ mịt, tâm thức của chúng ta chưa thể biết được, chỉ có cách là tu lên đến đó mới biết được mà thôi.

Hỏi: Tôi nhớ trong Lăng Nghiêm có câu nói về chân tâm “không hay biết thì không phải là tâm, còn hay biết thì không phải là chân.” Ý nghĩa câu này thế nào?

Đáp: Nếu không hay biết thì hóa thành vật vô tri, thì đó không phải là tâm. Còn hay biết thì còn vọng tâm do ý thức thứ sáu chia chẻ phân biệt, thì không phải là chân. Chân có nghĩa là CHÂN TÂM, nó bao gồm tất cả, nên phải hiểu như thế này, không phân biệt nhưng vẫn liễu tri rành rẽ, biết một cách liễu tri rành rẽ nhưng không móng niệm, không khởi vọng tình vọng tưởng thì như vậy mới gọi là biết, như vậy mới gọi là vô niệm.

Bây giờ cũng đã quá dài, xin tạm ngưng ở đây…

 

Comments

Popular posts from this blog