LĂNG NGHIÊM ẢNH HIỆN
CHƯƠNG 6
7 ĐẠI VỐN NHƯ HUYỄN VÔ-TỰ-TÁNH
NÓI VỀ
7 ĐẠI. 7 ĐẠI VỐN NHƯ HUYỄN VÔ TỰ TÁNH, NÊN PHẬT ĐÃ DÙNG BIỆN CHỨNG TRUNG
QUÁN THÂU VỀ NHƯ LAI TẠNG CHÂN NHƯ NHIỆM MÀU…7 ĐẠI ẨN HIỆN
RA SAO?
7 Đại là 7 đại-chủng:
Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không đại…và Kiến đại, Thức đại…(đại chủng:
elements).
7 đại cũng đều
là do THỨC biến, do cái Thức Sơ năng biến tức Hiện thức,
chuyển hiện mà thành ra 7 đại, cũng là vì do Tâm Động-niệm, do cái niệm-mê-mờ-vô-thủy…Vậy
thì trong sự chuyển hiện thành pháp giới, công lao hay lỗi
lầm chẳng phải là ở Căn hay ở Trần, hay ở Địa-thủy-hỏa-phong-không,
mà lỗi lầm là ở cơn mê-sảng của Tâm nó động đậy, để khởi vọng tưởng cùng vọng
tình tức là vọng thức phân biệt.
Khi thức sơ
năng biến khởi tâm tự-chiếu soi, thì nó chuyển thành Kiến-phần và Tướng-phần…Và
2 phần này luôn luôn phải ẨN HIỆN nhịp nhàng TƯƠNG ƯNG (synchrone).
Cái Kiến
phần, nếu nó chịu đứng lặng, thì toàn bộ là của nó thường khinh thanh
sáng láng vi tế, à nó tức là Kiến-phần, tức là CĂN hay Căn-đại.
Tướng phần thì
chuyển hiện tương ưng nhưng ngày càng trọng trược kém khinh thanh
sáng láng…và nó tức là Địa-thủy-hỏa-phong-không…tức là TRẦN.
Cái Kiến
phần, nếu nó biết chỉ chiếu soi 1 cách thuần phác vô tâm, thì nó vẫn Kiến-đại.
Nhưng nếu nó
quay ra chiếu soi 1 cách hữu-tâm, muốn nắm bắt phân biệt, rồi khởi tưởng
khởi tình, thì 1 phần của nó trở thành dao động lăng xăng, giao
thoa với những quang minh trọng trược hơn của Tướng phần,
và trở thành Thức-đại tức là THỨC…
Vậy thì 7 ĐẠI
chỉ là:
- 7 lớp quang minh từ
Tế đến Thô, chuyển hiện ra từ Hiện thức.
- Đều khởi lên từ
nơi Chân không, tương tự như những màn-sương-mù, dệt nên bở vô
lượng những tia-chớp-nháng phụt lên từ Chân không.
- Do đó, đều vô
tự tánh, đều không thật không hư, như huyễn như hóa,
như mộng ảo bào ảnh.
- Dung thông CHU
BIẾN khắp giáp, vì chúng vốn là Thức biến, vốn là Diệu tâm và bản
tính viên dung.
- Tùy theo nghiệp
lực chiêu cảm của chúng sanh-trong-cuộc mà phát hiện ra, lúc ẨN
lúc HIỆN…Khi nào những chủng tử nghiệp thuộc về 1 Đại nào đó trở
thành và nở xòe ra, thì tương ưng sẽ có những duyên đầy đủ, và Đại
ấy hiện ra…Khi nào hết nghiệp đó, thì các duyên bặt đi, và Đại ấy ẩn đi…Tỷ
dụ như khi Địa đại thô kệch hiện ra, thì hư không vi tế hơn
ẩn đi.
Hoặc khi
hư-không vi tế hay các đại vi tế hơn hiện ra,
thì địa đại tan biến và ẩn đi.
Cũng như khi Tối hiện
ra, thì Sáng ẩn đi, hay ngược lại…
Bởi thế, nên trong Kinh Lăng Nghiêm, trang 363, Phật dạy rằng:
"Này Phú Lâu Na! nếu
ông phát minh cái hư-không thì hư không hiện ra. Địa thủy hỏa phong,
mỗi mỗi phát minh thì mỗi mỗi hiện ra. Nếu cùng phát minh thì cùng hiện
ra…”
Chữ Phát minh đây
có nghĩa là: hoặc là chủng tử nghiệp lực của chúng sanh hiện
hành nở xòe ra, thì có thứ Đại tương ưng nó hiện ra, và như
thế là nghiệp-quả-sắc, tức là thứ sắc tướng chuyển hiện tương
ưng với nghiệp…Hoặc là khi kẻ hành giả quán chiếu 1 đại nào
tới mức thuần thục đúng mưc, thì Đại ấy hiện ra, như trường
hợp ngài Nguyệt quang đồng tử quán nước, và như thế thì gọi là Định-quả-sắc.
Trong Kinh
Lăng Nghiêm (từ trang 271 đến 305), Phật đã giảng giải cho
ngài A Nan về 7 Đại, và Ngài đã dùng lối Luận lý Trung quán để
đả phá các kiến chấp nông cạn của phàm phu và ngoại đạo về
7 đại ấy, đồng thời THÂU 7 đại về Như lai tạng Chân như nhiệm
màu.
Cũng tương tự như
trong đoạn thâu Nhĩ căn và Thanh trần đã nói ở trên, Ngài
đã bác bỏ 2 thế-luận là Tiếng chạy-đến-bên-cái-nghe và Cái-nghe-chạy-đến-bên-Tiếng,
để làm nổi bật lên Lối nhìn theo chiều sâu, theo Trung đạo song
chiếu, theo nhân quả nội-tại tự biến, theo Tự-tâm biến hiện.
Vì vậy, nên lời dạy trở
thành ẩn mật, và người đọc tụng Kinh Lăng Nghiêm cần phải sửa
đổi cái tập quán nhận thức sâu nặng hay nhìn theo bề ngang của
mình, thì mới lãnh hội được ý kinh cùng Chân lý.
Vậy thì Luận
lý Trung quán tức là lối nhìn theo chiều sâu, theo Nhất-như, theo lẽ
tương-sanh-tương-duyên, theo những tia-chớp-nháng phụt lên từ nơi Chân-không do
sức hành-nghiệp…Nhìn theo lối đó, thì lần lần sẽ thấy rõ ràng rằng: sự
vật không phải là thật có, không phải thường còn, không phải là có ngã, không
phải là hòa hợp cũng chẳng phi hòa hợp, không phải tự-sanh,
không phải Tha-sanh, không phải Cộng-sanh, cũng không phải không có nguyên
nhân. Vì đều chỉ là BIẾN HIỆN, do nghiệp lực chiêu cảm…
Do đó, sẽ vô
lý hóa, sẽ tiêu trừ, sẽ vượt được mọi thế-luận, mọi hý luận cùng kiến
chấp.
Vậy thì những
thế-luận này là những gì?
Thế luận này kể
ra thì rất nhiều, nhưng tựu trung cũng chỉ có 2 loại:
- Thuyết nhân
duyên hòa-hợp hay phi hòa hợp của phàm phu.
- Và thuyết tự-nhiên
hay Ngẫu-nhiên (le Hasard hay Causeless) của Ngoại đạo.
a)- Hãy nói
trước về luận-cứ thứ nhất.
Đây là luận cứ của phàm
phu. Phàm phu chúng ta, khi nhìn thế gian, thì thường cho rằng:
các sự vật đều là do 7 đại HÒA HỢP với nhau mà tạo dựng
thành, hoặc là do 7 đại PHI HÒA HỢP với nhau mà tạo dựng thành.
Tỷ dụ như
thân-căn con người thì gồm: 1 ít đất, 1 ít nước, 1 ít lửa tức hơi ấm,
1 ít phong tức hơi thở, vi-trần-số những lổ hổng (holes) tức hư-không, rồi
gồm với cái thấy-nghe-hay-biết tức là Kiến-đại và Thức-đại, để tạo dựng nên.
Như thế tức là các đại hòa-hợp.
Nhưng tới khi mạng
chung, thì chỉ còn có cái thây ma gồm: đất, nước và hư không. Còn 4 địa
kia đã biến đi đâu mất. tức là 4 đại kia đã phi-hòa-hợp.
Lối nhìn này thực
ra không phải là hoàn toàn sai, nhưng nông cạn, chưa sát với chân
lý, chưa rốt ráo liễu nghĩa. Vì vẫn còn là nhị biên.
Trong Kinh
Lăng Nghiêm, Phật đã mấy lần phá những ý-niệm nhị biên đó. Vì
các đại không thể nói là hòa hợp, cũng không thể nói là
phi-hòa-hợp được.
Tại sao không thể
nói là hòa hợp?
Là vì như ở trang 191 của kinh, Phật dạy rằng:
"Này Anan! Hiện nay, ông đang nhìn thấy trời sáng. Nếu cái thấy (tức Kiến đại và Thức đại) của ông nó hòa-hợp với cái sáng (tức là 1 thức hỏa-đại), thì cái sáng hiện đó, vậy chỗ nào là chỗ nó XEN LỘN với cái thấy?....Cái thấy và cái sáng đều có thể nhận rõ, nhưng còn hình trạng xen lộn thì như thế nào?”
Tức là ý Phật muốn dạy rằng: nếu 2 đại ấy hòa hợp được,
thì nó phải có 1 khoảng cách xen lộn lẫn nhau, và nếu đã không chỉ rõ được khoảng
cách ấy, thì làm sao có thể nói là 2 đại hòa hợp được?!
Là vì nếu suy ngẫm
kỹ, thì chúng ta sẽ thấy rằng: tỷ dụ như nước với lửa, như
đất với hư-không…, nếu chúng là THẬT CÓ và tồn tại riêng biệt, thì
làm sao chúng có thể hòa hợp với nhau được?...Sở dĩ chúng
có thể THẨM THẤU lồng vào nhau, và có thể GIẢ HỢP tương
sanh tương duyên để làm phát hiện nên mọi ảnh tượng sự vật, chính là
vì chúng chỉ là HƯ HUYỄN, chỉ là quang minh, chỉ là do Thức biến, là
Tự-tâm biến hiện, là cùng 1 THỂ nhưng khác nhau ở mức độ vọng hóa mà thôi.
Do đó, chúng có thể thẩm thấu lồng vào nhau, giả hợp, khiến những giác
quan thô kệch của chúng sanh lầm tưởng rằng chúng hòa
hợp mà thôi.
Nhưng các đại cũng
không thể nói là Phi-hòa-hợp được? là vì sao?
Là vì, cũng như Phật dạy nơi trang 191, 192 rằng:
“Nếu cái thấy của ông A-nan nhất định là
phi hòa hợp với cái sáng, hay phi hòa hợp với sự vật…, thì
làm sao lại thấy được cái sáng hay thấy được sự vật?! hoặc là nếu cái thấy và
cái sáng nhất định là phi hòa hợp thực sự, thì giữa 2 cái
đó phải có 1 LÀN RANH GIỚI, và phải chỉ được làn ranh giới ấy…Đã
không chỉ được ranh giới, thì làm sao có thể nói là phi hòa hợp?!”
Là vì như
trong tỷ dụ cái thây chết nói trên thì có 4 đại là hỏa-phong-không-kiến-thức
đã phi hòa hợp, đã bỏ ra đi và biến đi…Nhưng nếu là phi hòa
hợp thật sự, thì 4 đại đó, tuy đã bỏ ra đi, song vẫn còn phải tồn
tại và phải có chỗ để đi đến…Đằng này không, chúng chỉ tan biến đi và chẳng
biết là chúng đi đâu!
Là vì nếu suy
ngẫm kỹ, thì sẽ thấy rằng: cả 7 đại đều không có cách gì phi hòa hợp với
nhau được, vì chúng đều DÍNH MẮC lẫn nhau, đều là quang minh của pháp
giới cả, đều không thể ra khỏi pháp giới được…, và chỉ có thể
là tùy theo nghiệp lực của chúng sanh đứng nhìn để HIỆN
hay ẨN mà thôi…. Cũng như tất cả chúng ta đây, chẳng ai có thể vượt
khỏi cái Dính-mắc với pháp giới, trừ những ai biết tu Như-huyễn tam
ma đề để chứng nhập Diệu tâm..Vì thế, nên các đại chỉ có GIẢ LY
thôi.
Tóm lại, thì
cả 2 nghĩa: Nhân duyên hòa-hợp hay phi-hòa-hợp đều không thể thành
tựu.
b)-Luận cứ thứ
2: Thuyết TỰ NHIÊN hay NGẪU NHIÊN của ngoại đạo.
Thuyết Tự-nhiên
này của ngoại đạo là như thế nào? Một vài trường phái ngoại đạo chủ
trương rằng: Tạo vật sở dĩ có, là do 1 Đấng sáng tạo đã tạo
dựng nên, còn như Đấng sáng tạo này thì TỰ NHIÊN mà có, tức
là không có nguyên nhân tạo ra (incréé hay causeless).
Hoặc có trường phái
chủ trương rằng: Tuy không có Đấng sáng tạo, nhưng đã có 7 đại là đại-chủng
và yếu-tố căn bản để tạo dựng nên mọi sự vật…Hoặc có phái cho rằng chỉ
có LỬA là đại-chủng căn bản…Và họ cho rằng những đại-chủng căn bản là
tự-nhiên có, không có nguyên nhân tạo ra.
Hoặc có phái cho rằng
Thời-gian mới là đại chủng cơ bản đã tạo dựng nên mọi sự vật.
Thực ra thì những
chủ trương của ngoại đạo này không phải là không hàm chứa ít nhiều
chân-lý, nhưng chân lý còn kém thấp, nông cạn, và còn gợn niệm kiến
chấp. Là vì những cơn tam muội của họ đạt được còn nông cạn,
chưa rốt ráo, khiến họ còn nảy ra những vọng tưởng vi-tế đảo
điên, và chưa nhìn thấy rõ cỗi nguồn của sự vật.
Những phái chủ
trương rằng 7 đại hoặc Thời-gian là đại chủng cơ bản, thì còn vấp phải kiến
chấp quá nhiều. Vì họ cho rằng những đại chủng ấy là THẬT CÓ, và đại chủng có thể SANH RA những vật kia…Không biết rằng đại chủng cũng
chỉ là 1 VỌNG TƯỞNG huyễn hiện, và cái này có thể sanh ra cái kia
cũng chỉ là 1 vọng thức còn sặc mùi thế tục.
Còn chủ trương có
1 Đấng sáng tạo thì đã cao hơn. Đó là chủ trương truyền thống của Bà
la môn giáo, cho rằng có 1 Đấng Phạm thiên sáng tạo…Quan niệm ấy
là quan niệm Nhất nguyên thần hóa và nhân-ảnh hóa.
Nhưng Nhất nguyên thần hóa mới chỉ là 1 ý-niệm một bên. Còn thiếu Nhất
nguyên phi thần hóa và con đường Song chiếu Trung
quán…Vả lại, Nhất nguyên thần hóa thì vẫn nghiêng về chấp
CÓ, cho rằng vị Phạm thiên là THẬT CÓ, trong khi Phạm thiên vẫn
chỉ là một ảnh tượng vọng hiện, và cái Thực tại cuối cùng vốn
là chẳng-có-chẳng-không (ni Etre ni Non-Etre). Nhưng hình như thiên-tư tự
nhiên của tâm thức người dân Ấn Độ là ưa thích Nhất
nguyên thần hóa, ưa thích 1 Đấng Phạm thiên thật có,
vì như thế, lòng tin của họ dễ khởi lên mãnh liệt hơn…Ngoài ra, chủ
trương này cũng vấp phải kiến chấp có cái này Sanh ra cái kia vốn sặc
mùi thế tục. Đồng thời, cũng vấp 1 lỗi lầm nữa là: nếu quả
thực Phạm thiên đã tạo dựng nên vũ trụ này, thì tại
sao thế gian này còn phơi bày nhiều nỗi khổ lụy như vậy?!...
Có lẽ cũng vì nhận
thấy những khuyết điểm ấy, nên vào thế kỷ thứ 8 hay 9 gì đó, 1 đại tu
sĩ Bà la môn là Cankara đã thành lập phái Vedanta để bổ
xung thêm cho truyền thống Phệ-đà và Áo nghĩa thư. Và trong phái
này, Cankara đã đưa thêm ra quan niệm Bất-nhị và quan niệm Maya
(Như-huyễn), cả 2 có lẽ đều mô phỏng theo giáo lý nhà Phật.
Bởi thế, nên
khi xuất hiện nơi đời để điểm hóa cho hàng ngoại đạo về
những kiến chấp lệch lạc, Phật đã dạy trong pháp hội Lăng
già rằng:
“Này Bà la môn!
Tất cả những luận cứ đó thẩy đều là thế-luận của các ông, chẳng phải của Ta
nói…Ta chẳng nói CÓ NHÂN cũng chẳng nói KHÔNG NHÂN, chẳng nói THƯỜNG CÒN cũng
chẳng nói ĐOẠN DIỆT…Ta chỉ nói rằng do tập khí VỌNG TƯỞNG tích
lũy từ vô thủy mà 3 cõi được dựng nên…”
Riêng với 1 lời dạy
này, giáo lý nhà Phật đã vượt qua hết thẩy những chủ
trương ngoại đạo.
Rồi trong pháp hội Hoa Nghiêm, Ngài Phổ-hiền lại dạy:
"Các sự vật, các chúng sanh,
các cõi đều được dựng lập và kết tập nên do Thần-lực-hải của Chư Phật,
cùng Nguyện-lực-hải của Chư dại Bồ Tát, cùng Nghiệp-lực-hải của các chúng
sanh. Và cả 3 thứ Hải ấy đều bất tư nghì….”
Và trong Kinh
Lăng Nghiêm, Phật đã bác thuyết Tự nhiên, vì còn vướng nhiều kiến chấp.
Còn như thuyết NGẪU
NHIÊN, thì nó cũng là 1 hình thái của thuyết Tự nhiên…Ngẫu nhiên nghĩa là Tình
cờ (Hasard) mà có. Nói theo danh từ ngày nay, thì nó là Luật tắc của sự
Tình-cờ (Loi du hasard), của sự Chuyển-động tình cờ, Luật tắc thống kê của
sự chuyển động của số nhiều (Loi Statistique des grands nombres), của những
sác-xuất (Loi des probabili té s).
Tỷ dụ như phái
này chủ trương rằng: Vạn vật sở dĩ có được, là do vô lượng những
Cực-vi chúng chuyển động loạn xạ, nhẩy múa loạn xạ từ những kiếp nào không biết,
rồi TÌNH CỜ kết hợp được và tạo dựng nên. Một sinh vật
như 1 con khỉ hay 1 con người cũng vậy, chỉ là Ngẫu nhiên mà
có, do vô lượng cực-vi nhẩy múa loạn xạ rồi tình-cờ kết tập nên.
Thuyết này thì rõ rệt
dễ bác bỏ, vì mấy lẽ sau:
- Nó vấp phải 1 luật
tắc khác của khoa học cận đại gọi là Loi de l’Entroie….Theo luật tắc
này, thì các cực vi vốn là vật chất vô-cơ (mati è re
inorganique), thì trong khi chuyển động loạn xạ, cái chiều-hướng tự nhiên của
chúng là chuyển dần về những trạng thái có sự phân phối CÂN ĐỐI về năng
lượng hay tinh lực (Ré partition é ner gé tique sym é trique), tức là
khuynh hướng muốn bình chuẩn hóa những mức độ tinh lực (é galisation
dess niveaux d’ én ergie). Tỷ dụ như những cực-vi của đất hay nước ở
trên cao, thì bao giờ cũng chảy xuống thấp, vì chúng có nõa-tính (inertie), và
có chiều hướng muốn bình-chuẩn-hóa những mức-độ tinh lực.
Trong khi những con
sinh vật như khỉ hay người lại đều là những thực-thể hàm chứa những
cơ cấu BẤT CÂN ĐỐI về sự phân phối tinh lực (Structure asymetrique
hay dissymetrique)…Như vậy, thì sự chuyển động loạn xạ của vô lượng cực-vi
không thể tạo nổi 1 sinh vật được.
- Thứ 2 là nếu tính theo toán-số-xác-xuất (calclu des probabilités), thì nhiều nhà khoa học như Lecomte D Nouy cũng kết luận rằng:
Những phần tử cực vi vô
lượng, dù chuyển động loạn xạ lâu đến đâu cũng vậy, cũng không có 1 chút-sác-xuất
nào (probabilités nulle) để kết tập nên 1 sinh vật phức tạp như
khỉ hay người được…Cũng tương tự như 1 con khỉ, nếu đặt nó
trước 1 cái máy chữ và cho nó đánh máy loạn xạ, thì dù nó đánh bao nhiêu triệu
năm, cũng không bao giờ thành hình 1 cuốn sách có đầu có đuôi
và ý nghĩa được.
Bởi vậy, nên
trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật cũng bác bỏ thuyết này.
Đến đây, để hiểu
rõ thêm 7 Đại cùng lẽ Ẩn-Hiện của chúng, thiết tưởng cần nhắc lại sơ
lược các lời dạy của Phật trong Kinh Lăng Nghiêm.
a)- Về ĐỊA ĐẠI:
Lời dạy trong kinh
thường là cô đọng ẩn mật. Nơi trang 275, Phật dạy về Địa đại…Thiển nghĩ có
thể diễn giải lời dạy của Ngài như sau để cho dễ hiểu:
“Này Anan! Người thế gian, khi nhìn Địa đại, thì cứ tưởng nó là THẬT CÓ, rồi lại thấy tính chất của nó là hay ngăn-ngại, nên thường hay đối lập và cách biệt nó với hư-không. Rồi lại thấy địa-đại, khi nó hợp với nhau nhiều thì tạo thành trái đất hay thế giới. rồi tới khi nó LY nhau ra, tức là chia chẻ ra, thì nó lại thành vi-trần, rồi lân-hư-trần. Khi nó hợp nhau, thì họ tưởng là nó HỢP THẬT, và khi nó ly ra, cũng tưởng là nó LY THẬT, và khi nó ly ra, cũng tưởng là nó HỢP THẬT..Rồi họ lại nghĩ rằng:
Nếu cái lân-hư-trần ấy mà
đem chẻ ra nữa, thì chắc là nó thành hư-không.
Này A nan !
Không cứ người thế gian lầm tưởng như vậy, mà ngay đến ông đôi khi vẫn
còn lầm tưởng như thường, khiến cho Địa-đại phát hiện ra hoặc ẩn đi.
Còn như các bậc tiểu thánh hoặc Đại Bồ tát thì có thể
dùng tâm lực để quán chiếu và khiến cho địa-đại ẩn hay hiện. Tỷ
dụ như:
-Phàm phu: phàm
phu chúng ta chỉ có thể làm cho địa đại ẩn-hiện là tùy
theo nghiệp lực mà thôi, chưa thể dùng tâm lực hay sức quán chiếu được,vì tâm
lực quá tản loạn yếu kém.
Như khi ta trồng
cây chẳng hạn, hay khi người đàn bà thọ thai, thì đó là ta làm phát hiện địa-đại.
Vì cây mọc lớn lên, hoặc cái thai lớn lên, tức là địa đại tăng trưởng và
phát hiện ra… Nhưng đừng tưởng rằng hễ cứ trồng cây hay thọ thai, là địa-đại nhất
định phải phát hiện đâu… Cây mọc được, hay cái thai có thể lớn lên được
hay không, cũng tùy thuộc ở Nghiệp lực của ta. Nếu ta không
đủ phước báo để hưởng bóng mát của cây ấy, và ăn quả của cây ấy, thì
tuy có gieo trồng vun xới, hạt giống vẫn tàn lụi ung thối và cây
không mọc nổi. Bởi thế, kinh mới dạy rằng: nếu phước báo của chúng
sanh mỏng cạn, không đáng được hưởng sự no ấm, thì các địa vị thần
sẽ làm cho các chất mầu mỡ có torng đất biến lần đi, và các ruộng lúa không mọc
được, hoặc có mọc cũng ít trổ hạt lúa… Hoặc nếu người đàn bà ấy mang nghiệp
không xứng đáng có 1 đứa con, thì dù có thọ thai, rồi cái thai cũng bị hư
sảy. Và như thế, các mầm địa-đại lại ẩn đi. Đại lược là như vậy…
-Các Đại Bồ
tát:
Nhưng đối với các bậc
Thánh, nhất là Đại Bồ tát, thì các Ngài có thể dùng tâm lực (tức thần
lực hay Nguyện lực) quán chiếu, khiến cho địa-đại ẩn hay hiện 1
cách dễ dàng, đôi khi ẩn-hiện ngay lập tức…Tỷ dụ như có 1 người rớt xuống biển
cả, và nếu túc duyên người ấy đáng được cứu độ, thì Đức Quán
Thế Âm có thể dùng tâm lực hóa hiện ngay 1 mảnh gõ lớn, lềnh
bềnh trôi tới cạnh người ấy.
Nhưng thông thường,
thì trên con đường tu luyện, các vị hành giả ÍT KHI tu
theo lối quán chiếu làm PHÁT HIỆN địa-đại…Trái lại, các vị đó thường tu
quán chiếu ngược lại, nghĩa là khiến cho địa-đại ẨN đi.
Tỷ dụ như ngài
Trì-địa Bồ tát trong Kinh Lăng Nghiêm trang 545. Ngài
đã tu hành như sau: trong rất nhiều kiếp, ngài thường làm tỳ-kheo hay
người thường, nhưng chỉ chuyên về hạnh cuốc đất, hoặc gánh đất, hoặc làm
đường xá cầu cống, hoặc mang xách không công những đồ vật nặng cho kẻ
khác.
Như thế nghĩa là
gì? Nghĩa là: Ngài NHẨN CHỊU tất cả sức NGĂN NGẠI, sức đè ép, sự khổ lụy của địa-đại.
và đó cũng là 1 lối quán chiếu.
Rồi sau đó thì Ngài
làm gì? …Sau đó, Ngài nghe Phật Tỳ-xá-phù dạy: “Hãy bình cái Tâm, thì
bình được Địa-đại…” Nghe lời dạy, Ngài bèn hiểu rằng: “À ra như thế,
thì là địa-đại là do Tâm biến hiện, Tâm và Địa là bình đẳng…”
Ngài bèn quán BÌNH
ĐẲNG, quán chiếu rằng vi-trần nơi thân căn, và vi-trần
ngoài thế giới đều bình-đẳng không sai khác, vì đều là do Tâm biến hiện.
Rồi ngài lại quán Sắc-không
không 2, tức là Địa-đại VÔ NGẠI.
Tóm lại, ngài đã NHẪN
CHỊU, rồi quán BÌNH ĐẲNG, quán VÔ NGẠI. tức là quán NHƯ HUYỄN..rồi
tới chỗ thuần thục, đắc Vô sanh nhẫn…Và đối với ngài, sắc-tướng
hay địa-đại trở thành vô-ngại.
b)-Nói về THỦY
ĐẠI:
Thủy- đại
cũng tương tự như địa-đại, vì đều là biến-hiện. Nhưng vi-tế hơn, ít
ngăn ngại hơn, động lưu hơn, hoặc chảy hoặc đứng lặng, và có sức thẩm thấu mạnh
hơn.
Trong kinh, trang
281, lời dạy đại ý như sau:
“Này A nan! Như
trong thành Thất la phiệt này, có mấy ông tiên Bà-la-môn thích tu luyện đơn.
Muốn luyện đơn, thì phải có 1 thứ nước đặc biệt, gọi là Vô căn thủy…nên
họ thường chờ những đêm trăng sáng, cầm hạt châu Phương chư giơ ra giữa trời,
thì lần lần, có những giọt nước HIỆN ra nơi hạt châu, rồi rớt xuống
cái bat.
Vậy nước ấy ở đâu
mà ra? Từ mặt trăng ra, hay từ hư-không, hay từ hạt châu, hay từ bàn
tay?...Đều không đúng cả. Vì mấy thứ đó chỉ là Duyên thôi, không phải
Sanh-Nhân…Khi các duyên hội tụ đầy đủ, và có Nghiệp tương-ưng, thì NƯỚC phát hiện.
Cho nên, nghiệp chiêu cảm mới thực là sanh-nhân, và khi nó chiêu
cảm đúng mức, thì Nước khởi-hiện lên từ nơi Chân-không tức Diệu tâm.
Vậy này A nan! Ông
nên nhớ kỹ như vầy. nước là vô-tự-tánh, là như-huyễn, là Thức biến,
là biến-hiện. TÁNH của THỦY chính là CHÂN KHÔNG, tánh của KHÔNG chính là
CHÂN THỦY, bản nhiên thanh tịnh, chu biến khắp giáp, tùy
theo nghiệp-lực chiêu cảm của chúng sanh mà ẨN-HIỆN,
chẳng phải là do nhân duyên, hay tự-nhiên hay Ngẫu nhiên mà có…”
Về lẽ ẩn-hiện,
thì phàm phu chúng ta cũng có thể làm cho Thủy-đại ẩn hiện..Như
khi ta đun 1 cục băng, thì nước phát hiện. khi ta cho 1 cốc nước vào trong tủ lạnh,
thì nước đóng thành đá, và như thế là nước tạm ẩn đi…Nhưng đừng quên rằng: Sở
dĩ ta thường thành tựu mấy việc thông thường ấy, là vì nghiệp của
ta cùng cộng nghiệp của loài người, đã đạt tới mức độ tương ưng có
thể hưởng dụng những sự đổi thay ấy.
Còn đối với các bậc
Thánh, thì Kinh Lăng Nghiêm, ở trang 549, có nói đến trường hợp ngài Nguyệt
quang đồng tử, tu phép quán Nước để vào tam ma đề…Ngài bắt đầu bằng
quán BÌNH ĐẲNG, quán chiếu rằng: các thứ nước ở trong thân mình
như nước bọt, đờm rãi, tiểu tiện…cùng với các thứ nước ở bên ngoài như nước
mưa, nước sông hay nước bể hương thủy của Phù-tràng-vương Phật
sát…cũng đều bình đẳng, không 1 không khác.
Quán như vậy lâu rồi,
thì tâm thức ngài nhập một với Nước, vào Tam-ma-đề, đắc quả Alahan…Nhưng
tuy tâm nhập một với nước, nhưng Ngài còn vướng phải Thân, chưa được
Không-thân, và Thân với Nước còn LƯU NGẠI nhau.
Ngài tiếp tục quán.
Và trong những cơn Định, nước tiếp tục HIỆN ra lênh láng chung
quanh ngài. nước ấy tức là do ĐỊNH QUẢ SẮC, chỉ 1 mình ngài trông thấy…Tiếp
tục nữa, thì nước ấy trở thành DIỆU ĐỊNH quả sắc, và người chung
quanh cũng có thể nhìn thấy, và nghe thấy tiếng vỗ. rồi có 1 đệ-tử nhìn vào thấy
nước, nảy tâm tinh nghịch lượm 1 viên ngói ném vào khoảng nước
và phát ra thành tiếng…Khi xuất định, ngài thấy tim đau, vì nước và hòn
ngói (địa-đại) còn lưu-ngại thân ngài. Tới khi biết nguyên do là viên
ngói lưu-ngại, ngài bảo người đệ-tử chờ cơn định của ngài để lượm viên ngói ra.
Và khỏi bệnh.
c)-Nói về HỎA- ĐẠI:
Hỏa đại vi-tế
hơn, linh động hơn nhiều, vì do những quang minh vi-tế hơn
của Thức biến kết tập nên..Nhưng cũng vẫn tương tự như
vậy, cũng vô tự tánh, như huyễn, cũng biến hiện..tùy theo duyên
và nhất là tùy theo Nghiệp-lực chiêu cảm mà ẩn-hiện.
phật dạy đại ý như
sau:
“Này A nan! Hỏa
đại cũng vậy, không có tự-thể, giúp nơi các duyên mà phát hiện.. Như những
người trong thánh này, khi muốn nhóm bếp, thì lấy 1 ít bùi nhùi, rồi tay cầm
kính mặt cong (miroir concave) đưa ra ánh sáng mặt trời, bèn có Lửa bốc
cháy nắm bùi nhùi.
Ông nên biết rằng:
Lửa ấy chẳng phải do bàn tay, do bùi nhùi, kính mặt cong, do hư không hay mặt
trời mà ra…Mấy thứ đó chỉ là Duyên thôi, tuy mặt trời có vẻ là
thứ duyên chính yếu. Vì Sanh-nhân chính là do sức nghiệp chiêu cảm,
nên mỗi khi có các duyên hội tụ đầy đủ, thì Lửa bèn phát-hiện từ nơi
Chân-không…Nếu tỷ dụ như sức nghiệp của loài người không đủ
để chiêu cảm Lửa, để hưởng thụ ánh sáng cùng sức nóng của lửa, thì dù
các duyên có hội tụ, lửa vẫn không phát hiện. vì có những cõi rất tối
tăm, không hề có lửa, do phước báo quá mỏng manh không thể chiêu
cảm sự phát hiện của lửa.
Bởi vậy, cần nhớ kỹ
rằng trong Như lai tạng, TÁNH của HỎA là CHÂN KHÔNG, và TÁNH của
KHÔNG chính là CHÂN HỎA. Bản nhiên thanh tịnh, viên dung chu biến khắp
giáp, tùy theo sức nghiệp chiêu cảm mà ẩn-hiện. không phải
do nhân duyên hay Tự-nhiên…”
Về Lẽ ẩn-hiện,
thì phàm phu chúng ta, khi NỔI cơn sân hoặc động tình dâm dục,
bèn khiến lửa phát hiện, vì lửa dục bốc cháy bừng bừng. Khi nuốt
1 cơn giận hay dẹp sự động tình dâm dục, thì lửa dục lại
ẩn đi.
Đối với các bậc
Thánh, thì Kinh Lăng Nghiêm, trang 543, có nhắc đến trường hợp ngài
Ô sô sắc ma.
ở 1 kiếp xa xưa,
Ngài vốn là 1 người nhiều dâm dục, lửa dục luôn luôn bốc cháy
khiến đứng ngồi không yên..
ngài bèn tu phép
quán LỬA, quán chiếu những HƠI NÓNG và LẠNH thường hay phát
khởi trong thân mình. Lần lần thấy rằng: những hơi nóng hay lạnh đó đều BÌNH
ĐẲNG, không 1 không khác, nóng và lạnh chẳng rời nhau. Vì sao? Vì đều là do Thức-tâm chuyển
biến, biến hiện, đều là cùng MỘT THỂ cả. Cũng như Tối với Sáng vậy, Tối
với Sáng chẳng hề rời nhau…Ngài lại xoay ra quán chiếu sự chuyển-hiện
của các thứ Lửa, thì thấy rằng chúng thực ra chẳng hề lưu-ngại lẫn
nhau, có thể chuyển-hiện VÔ NGẠI. lần lần thuần thục, thì cái THỂ ấy HIỆN
ra rõ ràng, tức là cái Giác tính sáng suốt tức là cái Thức
vi-tế sáng suốt chiếu soi, tức là cái Kiến-đại thuần túy. Vì
không còn vọng-niệm, nên Giác tính ấy đứng lặng chiếu soi, tức là
cái Giác tính sáng suốt, tức là cái Thức vi-tế sáng suốt chiếu
soi, tức là cái Kiến-đại thuần túy. Vì không còn vọng-niệm, nên Giác
tính ấy đứng lặng chiếu soi, tiêu trừ hết hoặc-lậu. Và như thế,
ngài đã chuyển-hiện, đã thăng hoa (sudlimer) Lửa đa-dâm thành Lửa Trí-huệ….
Và trong kinh Duy
ma, thì Ngài Tịnh danh (tức Duy ma cật) dạy rằng: “Đại Bồ
tát có thể hút tất cả các thứ lửa ở thế-gian này vào trong bụng, mà không
hề bị tổn hại…” Vì sao? Là vì Thân của Đại Bồ tát là Vô biên
thân, thân vô sở y, thân Diệu sắc, thân không dính-mắc 6 trần,
thì làm sao mà tổn hại?!!
d)-Nói về PHONG
ĐẠI:
lại vi-tế hơn nữa,
nhưng cũng vẫn tương tự như vậy.
Phật dạy đại ý như
sau:
“ Này A nan!
Phong-đại cũng vậy, không có tự-thể, khi động khi tĩnh không chừng, động
thì hiện ra, tĩnh thì ẩn đi.
Như ông thường đi
vào trong đại chúng, nếu ông sửa áo, nếu vạt áo phất qua người bên cạnh,
thì liền có chút GIÓ phẩy qua mặt người kia….
Ông chớ nên tưởng rằng:
gió ấy là do bàn tay ông, do vạt áo, do hư-không hay do mặt người kia mà
phát hiện ra đâu…Mấy thứ đó chỉ là Duyên mà hội tụ mà thôi. Sanh-nhân
chính của nó là do sức nghiệp của các ông chiêu cảm mà phát hiện
ra. Người thế-gian cứ hay lầm tưởng về chỗ đó, cứ tưởng rằng mỗi khi mình phất
vạt áo hay phe phẩy chiếc quạt, thì không bị chấn động, và có luồng
gió hiện ra. Nghĩ như thế cũng không phải là hoàn toàn sai,
nhưng đó chỉ là 1 lối nhìn thiển cận, chỉ đúng ở 1 kích-độ nào (é chelle
d’ observation) mà thôi, và chưa phải là lối nhìn rốt ráo theo Tự-tâm
biến hiện. Cũng tương tự như lối nhìn: “ Tiếng đến bên Tai hoặc tai đến
bên tiếng” trong trường hợp ông nghe tiếng trống hay tiếng
chuông nơi vườn Kỳ đà này mà thôi.
Ông nên nhớ kỹ rằng:
dù các Duyên có hội-tụ đầy đủ, nhưng nếu không có sức nghiệp
tương-ưng chiêu cảm, thì GIÓ vẫn KHÔNG PHÁT HIỆN…Bằng chứng là
khi tới kiếp hoại, những cơn Đại-phong-tai nổi lên ầm ầm, lay động khắp nơi chốn,
làm sụp đổ tất cả những từng trời từ Đệ tam thiền trở xuống. Thế mà
những tầng trời ở Đệ tứ thiền vẫn an nhiên bất động,
và chư thiên ở đó vẫn chẳng thấy có gió lay động gì cả. Vì sao? Là vì
họ không có nghiệp chiêu cảm, họ đã vượt qua được những nghiệp
tương-ưng với GIÓ rồi. Tâm thức của họ không còn phải chịu sự
lay động của gió nữa… Trong những tiền thân của Ta, Ta đã nhiều lần
thọ sanh nơi những tầng trời Đệ tứ thiền, và nhiều lần chứng kiến cảnh
đó, nên Ta biết rõ.
Vậy thì này A
nan! Ông nên biết rằng trong Như lai tạng, TÁNH của Phong là CHÂN
KHÔNG, và TÁNH của KHÔNG chính là CHÂN PHONG, bản nhiên
thanh tịnh, viên dung chu biến khắp giáp, tùy theo sức
nghiệp chiêu cảm mà ẩn-hiện, không phải do nhân duyên hay Tự
nhiên…”
Về lẽ ẩn-hiện,
thì phàm phu chúng ta có thể lấy miệng thổi,hay cầm chiếc quạt
phe phẩy, là có gió hiện ra. Sự việc ấy xảy ra quá thông thường, khiến ta
ãng quên mất tính cách kỳ diệu của nó. Thực ra, thì bất cứ
sự việc gì dù nhỏ nhoi tầm thường đến đâu, cũng đều kỳ diệu cả.
Vì sao? Vì đều là do nghiệp-lực bất tư nghì chiêu cảm, đều là do Tâm biến
hiện…Gió nổi lên là vì nghiệp hiện hành tương ưng, nếu nghiệp
không tương ưng thì gió không hiện được. tỷ dụ như
trong câu chuyện huyền-hoặc là Tây du ký, có La sát nữ vương
lấy chiếc quạt Thiết phiến tiêu 1 cái mà Tề thiên đại thánh bị bạt đi
8 vạn dậm. Là vì tâm của ôn hành giả còn vọng động nhiều. Tới khi ngậm
được viên thuốc Định-phong-đơn, thì tâm bốt vọng động, nên tuy bị quạt nữa mà
không bị bạt đi…
Đối với các bậc
Thánh, thì kinh Lăng Nghiêm có nhắc tới trường hợp ngài Lưu
ly quang Pháp vương tử.
Ngài tu phép
quán Phong đại, quán thế-giới và thân tâm chúng sanh đều do
sức LAY ĐỘNG của những vọng-duyên chuyển biến ra… Lần
lần, thấy rằng: những lay động của thức tâm mình, cùng những thức
tâm của vi-trần-số chúng sanh, cùng vô vàn những lay động của thế
giới ấy đều như nhau, BÌNH ĐẲNG không 1 không khác. Cũng
đồng là 1 loài hư-vọng biến-hiện cả, có thể chuyển hiện VÔ NGẠI, như
huyễn như mộng, đến không từ đâu, đi chẳng tới đâu… Nên ngài đắc Vô
sanh nhẫn, và nhìn thấy được cõi Bất động của Phật A xúc ở phương
đông. Vì đắc Vô sanh nhẫn, thì Kiến đại đứng lặng, chiếu soi rất
xa và vi tế, nên thấy được nhiều cõi Phật.
e) Nói về KHÔNG
ĐẠI:
Không-đại lại vi-tế
hơn nữa,vô tướng mạo hơn nữa, nhưng lẽ ẩn-hiện cùng tương tự.
Phật dạy đại ý như
sau:
“Này A nan! Tới
Không-đại hay hư-không này, tức là bắt đầu đi vào chỗ vô-tướng-mạo rồi, tới
gần cái thấy, cái thức và Diệu tâm… Tuy nhiên, hư-không với sắc-tướng…
Những trường phái ngoại đạo cũng không thấu triệt, nên thường
đưa ra khá nhiều luận thuyết về hư-không. Hoặc họ cho rằng:
hư-không là NƠI CHỖ để an lập các sự vật sắc-tướng, và trong đó
các sự vật được an lập theo THỨ ĐỆ xa gần. Chủ trương như
thế, thì còn là thô kệch và thấp kém lắm, không hơn lối
nhìn của người thế gian là mấy nỗi. Vì còn chấp trước rằng
có nơi chỗ xứ-sở và có thứ-đệ-pháp-số (nombre), trong khi mọi xứ-sở cùng pháp-số
đều chỉ là luống lối.
Hoặc họ cho rằng:
hư-không là pháp bị-làm-ra. Tỷ dụ như khi ta nhổ bỏ cây cỏ, san
bằng nhà cửa thì thành ra hư-không. Nhưng nói như thế vẫn là thấp kém,
vì suy ngẫm kỹ, thì sẽ thấy rằng trong tất cả thế gian này, không thể
có pháp nào do TẠO TÁC mà thành tựu được.
Hoặc họ cho rằng:
hư-không là không chướng-ngại, trong khi sắc-tướng là chướng ngại. Nói như
thế,là vì họ không hiểu rằng chướng ngại hay không đều là do Vọng
thức phân biệt và chiêu cảm từ thời vô-thủy.
Hoặc có phái chủ
trương cao hơn cả, thì cho rằng : Hư-không là do Quang-minh diệt thành. Nói như
thế thì đã gần chân-lí hơn, nhưng họ vẫn còn chấp rằng những quang minh ấy
là THẬT CÓ, và không hiểu rằng ngay những quang minh ấy
cũng chỉ là sự HUYỄN HIỆN của Thức tâm.
Này A nan! Sự
thật thì Hư-không ấy cũng chỉ là VỌNG HIỆN, chỉ là Huyễn-hiện
của Thức-biến, chỉ được dệt nên bởi những quang minh vi-tế như-huyễn
phát xuất từ những chủng-tử MÊ MUỘI VI TẾ trong tâm
thức chúng sanh. Trong khi sắc-tướng được dệt nên bởi những quang
minh thấp kém của những MÊ MUỘI THÔ KỆT lóng lại…Do
đó, nên Sắc-Không không 2, vì cùng 1 loài hư-vọng, vì đều là biến hiện cả…Và
khi nào sắc tướng mờ nhạt đi, tì hư-không hiện ra. Còn khi nào sắc-tướng
hội-tụ lại thành những nét vẽ sâu đậm, thì hư-không ẩn đi.
Tỷ dụ như hằng
ngày, ông vẫn thường thấy trong thành này, có những kẻ Chiên-đà-la làm nghề đào
đất để khơi giếng nước. Nếu đào ra 1 thước, thì liền có 1 thước hư-không. Nếu
đào ra 1 trượng đất, thì liền cos1 trượng hư-không.
Này A nan! Ông hớ
nên lầm tưởng rằng hư-không ấy là do đất sanh, hoặc do đào mà có, hặc không
nhân gì mà tự sanh đâu…Sắc-tướng đất, hay tay người đào chỉ là những duyên hội
tụ mà thôi. Còn nói là không nhân gì mà tự sanh thì cũng không đúng nốt. Vì
Sanh-nhân của nó chính là nghiệp-lực chiêu cảm. Nếu không có
nghiệp tương-ứng, thì cho dù có đào bới nhiều kiếp, thì vẫn không tìm thấy hư-không…Tỷ
dụ như nhưngx kẻ đọa vào địa ngục Vô gián, thì bền thấy thân mình lúc nào
cũng đầy chật địa ngục, và dù có đào bới nhiều kiếp, vẫn không kiếm nổi 1
chút hư-không để than mình có thể cựa quậy.
Vậy thì ông
nên nhớ kỉ rằng: TÁNH của hư không cũng chính là CHÂN KHÔNG, và
Chân-không thì chính là GIÁC TÁNH tức là CHÂN GIÁC, vậy thì Tánh
của hư-không là Chân-giác. Ngược lại, thì TÁNH của giác cũng là CHÂN KHÔNG,
và cũng tức là Hư-không…Bởi vậy, nên hư-không bản nhiên thanh tịnh, viên
dung chuẩn đến khắp giáp, tùy theo nghiệp-lực chiêu cảm mà
ẩn niệm, không phải do nhân duyên hay Tự-nhiên!...
Về lẽ ẩn hiện, thì
khi phàm phu chúng ta đào đất hoặc đốn cây, hư-không liền hiện
ra. Trái lại, nhà hay trồng cây, thì 1 phần hư-không ẩn đi.
Đối với bậc
Thánh, kinh Lăng Nghiêm nhắc tới ngài Hư không tạnh Đại
Bồ tát.
Ngài là 1 bậc ghê gớm,
vì từ kiếp xa xưa, ở nơi Đức phật Định quang, ngài đã cùng tu với Đức Thích
ca và cả đều đắc Vô-biên-thân…Thân vô biên tức là thân
bao cả hư-không, gần như Thân-không-thân…” Lúc ấy, ngài cầm 4 hạt châu
báu lớn, soi tỏ các cõi Phật 10 phương nhiều như vi-trần, đều hóa
thành Hư-không…”. Có nghĩa là: ngài nhập những cơn tam-muội lớn, tỷ dụ như
Không tam muội, Vô-tướng tam muội, hoặc Vô-anh tam muội hay
Vô-nhị ta muội…, và trong những cơn định ấy, Tàng thức của ngài đứng
lặng, trở thành một tấm gương lớn Đai-viên-cảnh-trí, chiếu soi khắp cỏi
Phật.
Thấy rõ rằng: vi-trần-số cõi
Phật đều như huyễn như hóa, như bóng như tượng…, cùng với
Hư-không đều BÌNH-ĐẲNG, không khác, vì đồng 1 loài hư-vọng, vì điều là do Tự-tâm
biến hiện. Bởi thế, nên các cõi Phật có thể hóa thành hư-không,
có thể VÔ NGẠI nhập vào Vô-biên-thân hư-không của ngài, cũng nư thân
ngài có thể khéo nhập vi-trần-số quốc độ, rộng làm việc Phật…Được đại-tùy-thuận,
vì Sắc-Không không 2, đắc Vô sanh nhẫ…
f)- Nói về KIẾN
ĐẠI:
Về 2 món Kiến-đại
và Thức-đại này, ở những chương trên đã nói tới nhiều.
Chỉ cần nhắc lại rằng:
Kiến-đại còn vi-tế hơn hư-không, ở sâu hơn và gần Diệu tâm hơn nữa.
Vì nó thuộc về Kiến-phần của Thức Sơ-năng-biến, trong khi hư-không cùng bốn
đại kia là thuộc về Tướng phần… Nhưng lẽ ẩn-hiện vẫn tương tự. Lời
Phật dạy đại ý như sau:
“Này A nan! Kiến-đại
này thuộc về Kiến-phần của Thức Sơ-năng-biến khi Thức này chuyển hiện. Nó là
cái thành phần quang minh thanh sáng láng của Kiến phần, và
thường đứng lặng. Nó có giác quan, tức là có chiếu soi liễu-tri, nhưng nó
không lăng xăng phân biệt, và nó chỉ nhân các thứ sắc-không hay tối-sáng
mà phát hiện ra…
Tuy rất khinh thanh
vi-tế và gần Diệu tâm, nhưng nó vẫn là vô-tự-tánh, không có tự-thể, vẫn
như mông như-huyễn, vẫn là biến-hiện của tự-tâm.
Khi sự chuyển hiện
của Tướng-phần làm khởi nên các thứ sắc-không và tối-sáng, thì ở nơi Diệu
âm, cái tính Diệu-viên trạm-nhiên yên lặng bị dính mắc vào các thứ đó, và làm
phát hiện cái Thấy Kiến-đại.
Nhưng này A nan!
Ông phải cẩn trọng, chớ lầm tưởng rằng Kiến-đại là do các thứ sắc-
không hay tối-sáng sanh ra đâu…
Ông không thể nói rằng
Kiến-đại ấy , so với sắc-không và sáng-tối, là hoàn toàn khác
nhau, là không cùng 1 thể. Vì sao? Là vì chúng đều là do Tự-tâm biến hiện, và
thêm nữa, nếu chúng THẬT là khác nhau, thì cái Thấy không thể nào thẩm thấu sắc-không
cùng tối-sáng.
Nhưng ông cũng
không nói rằng Kiến đại ấy là một với sắc-không và tối-sáng.Vì sao?
Là vì tuy chúng đều là do Tự-tâm biến hiện, nhưng mức-đọ vọng hóa đã khác nhau
rất nhiều, vì mức-độ khinh thanh hay trọng trượt của quang minh do đó
đã khác biệt nhau. Thêm nữa, nếu kiến đại là một với sáng hay
hư-không, tì làm sao nó có thể thẩm thấu và thấy được tới
cùng các sắc-tướng?!?! Ngược lại cũng vậy, nếu nó là một với tối và sắc
tướng, thì làm sao nó có thể thấy được sáng và hư không?!
Vậy thì này A
nan! Ông nên biết rằng các thứ không cùng tối-sáng chỉ là những duyên hội-tụ,
cho Kiến-đại có thể phát hiện ra mà thôi. Còn Sanh-nhân thật của nó
là do nghiệp-lực chiêu cảm, làm phát hiện lên Kiến-đại…Bằng chứng
là lấy tỷ dụ1 co côn-trùng nhỏ nhít như con giun hay sống trong lòng đất chẳng
hạn, thì con giun này chỉ có 1 thứ thức giác thô sơ thôi( tức Thức-đại thô
sơ), và chưa đủ nghiệp lực để chiêu cảm Kiến-đại…, nên
dù có đủ sắc-không cùng tối-sáng hội-tụ, con giun ấy vẫn chưa thể làm phát hiện
Kiến-đại được. Và còn lâu lắm, nó mới có thể tìm thấy cửa ngõ để trở
về Diệu-âm.
Bởi thế, này A nan!
Ông nên nhớ kĩ rằng: trong Như lai tạng nhiệm mầu, cái Thấy ở
nơi tâm thức chúng sanh chính là cái TÁNH MINH sẵn
có của Bản giác hay Diệu tâm, và cái Tánh minh sẵn có này của Bản
giác thường hay biểu lộ ra nơi CÁI THẤY của
chúng sanh…(TÁNH KIẾN là Giác minh, GIÁC TÁNH là
minh-kiến )…bản nhiên thanh tịnh, viên dung chu biến khắp
giáp, chỉ tùy theo nghiệp lực chiêu cảm mà ẩn-hiện, không
phải là do nhân duyên hay Tự-nhiên..”
Về Lẽ ẩn-hiện của
Kiến-đại, thì nếu phàm phu chúng ta cố ráng giữ cái tâm mình
bình thản( tức BÌNH ĐẲNG hay như-như bất động) trước mọi hoàn
cảnh đổi thay, không khởi tâm yêu ghét, thì Kiến-đại lần lần hiện
ra, và Thức-đại lần lần ẩn đi… Còn tâm ta cứ tiếp tục mong cầu yêu
ghét, thì Thức-đại ngày càng chồng chất, và Kiến-đại ẩn đi. Và cửa ngõ vào
vườn Thiên thai của Diệu taambij những cánh hoa đào rơi rắc chồng
chất bít mất lối về….
Còn đối với các bậc
Thánh, Thì có ngài Đại thế Chí Pháp vương tử đã dùng câu niệm
Phật để thúc liễm 5 căn, rồi dùng ý NHỚ TƯỞNG Phật để lắng
đọng Kiến-đại, lọt vào vô thức, làm phát hiện ra cái Kiến-đại tịnh
diệu của Tàng thức, và nhìn thấy 10 phương chư Phật.
i)- Nói về THỨC ĐẠI:
Cũng tương tự như
Kiến-đại, Lẽ ẩn-hiện cũng như vậy, nhưng Thức-đại thường trọng trượt hơn, và vọng-động
nhiều hơn.
Lời Phật dạy đại
ý như sau:
“Này A nan! Thức-đại
ấy cũng được kết tập nên do những quang minh của các Kiến-phần
thấy-nghe-hay-biết, nên cũng tương tự như Kiến-đại. Nhưng trong khi
Kiến-đại là cái thành phần khinh thanh sáng láng hơn, tuân theo những
tập-khí nhận thức muốn LY VẬT trong tâm thức chúng
sanh nên thường ĐỨNG LẶNG để chiếu soi…, thì Thức-đại là
cái thành phần trọng trược kém sáng láng, tuân theo những tập-khí
muốn GIẢ HỢP với Vật, nen ưa thích LĂNG XĂNG RONG
RUỔI chạy theo Vật, và do đó nhiều giao động cùng vọng
động hơn.
Trong khi Kiến-đại
chỉ chiếu soi và liễu tri nhưng chẳng muốn hề tưởng tình, thì thức-đại
rất ưa khởi tưởng khởi hình…Cho nên, trong khi Kiến-đại chỉ dính mắc đôi
chút vớ săc-không hay sáng-tối, thì Thức-đại dính mắc rất nhiều với cả 6 trần,
vì dính mắc với 6 trần nên dính mắc cả 6 căn nữa.
Nhưng thực ra này
A nan! Thức-đại ấy nó chẳng có nguồn gốc thật gì đâu, nó chẳng có tự-thể, nó
vô-tự-tánh, chỉ là biến-hiện, là huyễn-hiện. Nó chỉ là những tâp-khí thâm
sâu,ƯA lăng-xẳng rong ruổi để dụng tâm phân biệt khởi tưởng khởi
tình, rồi nhân nơi 6 căn 6 trần mà GIẢ DỐI phát hiện ra…Cũng như ông
hiện nay, đang đúng nhìn các Thánh chúng trong pháp-hội này. Nếu ông
chỉ dùng con mắt lướt qua, chẳng dụng tâm phân biệt, thì ông thấy
rằng tất cả những người trong hội này đều chỉ là những chiếc bóng trong
gương, chẳng-thật-chẳng-hư, và tâm ông vẫn nhẹ nhàng thanh thản. Nhưng nếu
ông nặng tâm muốn phân biệt, muốn khởi tưởng khởi hình, thì ông sẽ thấy rằng
đây là đây là ông Văn thù, đây là ông Tu bồ đề, kia là ông Xá lơi Phất,
kia là Đức Thế tôn có sắc thân vàng chói và đương thuyết
pháp. Như thế thì tâm thức ông sẽ nặng chĩu, vì TƯỞNG rằng những chiếc
bóng ấy là thật rồi khởi tâm YÊU GHÉT.
Vậy thì ông chớ
nên lầm tưởng rằng: cái Thức nhận biết như thế là do Kiến-phần mà
sanh ra, hoặc do các sắc-tướng hay hư-không mà có, hoặc không nhân gì mà bỗng
nhiên sanh ra đâu!...Kiến-phần hay sắc-tướng hay hư-không cũng chẳng qua chỉ là
những duyên hội-tụ, khi hội-tụ đầy đủ thì làm huyên-hiện nên cái Thức tâm nhận
biết ấy mà thôi. Còn cái Sanh-nhân chính thì vẫn là do nghiêp-lực chiêu
cảm. Nếu ông không có cái nghiệp-lực tương-ưng và chiêu cảm từ vô
thủy, thì dù các duyên có hội tụ đầy đủ, ông vẫn chẳng thể nhận biết những bóng
dáng của 6 trần được…Tủy dụ trong pháp hội này, nếu có một con
giun đất bò qua, hay 1 co chim bay qua,hay 1 con ngựa đi qua, tuy các trần vẫn
đầy đủ, và côn vật ấy cũng có các căn để thấy-nghe-hay-biết…nhưng nó tuyệt
nhiên chẳng thể phân biệt rằng đó là ông Văn thù Pháp vương tử,
và đó là 1 Đấng Thế tôn xuất hiện nơi đời hy hữu như 1
bông hoa Linh thoại…
Và ông nên nhớ rằng:
trong Như lai tạng nhiệm mầu, Thức-đại ấy vốn là những tập-khí ưa LĂNG
XĂNG RONG RUỔI để khởi tưởng khởi hình, đột khởi lên từ Tánh
Tịnh-minh Bản giác, và Tánh Tịnh-minh Bản-giác này thật là CHÂN
TÁNH của Thức-đại…và Đại này cũng bản nhiên thanh tịnh, viên
dung chu biến khắp giáp, tùy theo Nghiệp-lực chiêu cảm mà
ẩn-hiện không phải do nhân duyên hay Tự-nhiên..”
Về Lẽ ẩn-hiện,
thì phàm phu chúng ta suốt ngày thường làm phát hiện Thức-tâm phân
biệt, tức Thức-đại…Nhưng nếu ta phát tâm tu hành, trì giới, thiền
quán, đọc tụng kinh điển và trì thần chú… thì cái thức-tâm lăng-xăng
rong ruổi chạy theo cảnh ấy lần lần bớt đi, và Thức-đại lần lần ẩn
đi. Rồi Kiến-đại lần lần hiện ra, làm phát khởi cái Thấy tịnh
diệu.
Còn đối với các bậc
Thánh, thì có ngài Di lặc Đại Bồ tát… từ những kiếp xa xưa, ngài vốn
là người ưa chuộng hư-danh, nghĩa là rất nhiều vọng tâm. Gặp được
Phật Nhựt-nguyệt đăng minh chỉ cho pháp môn quán chiếu về
cái Vòng huyễn-hiện cuer Thức biến. Ngài quán chiếu lâu rồi, thì
đứng ngay ở giữa mê-hồn-trận của trường Thức-biến đầy vọng hóa ấy, ngài cũng nhận
rõ thấy rằng các sự vật, các cõi cũng chỉ là sự huyễn hiện của Thức biến.
Thấy rõ được Chân-tánh của Thức-đại, xa rời Biến-kế-chấp cùng Y-tha-khởi, chứng
nhận tánh Viên-thành-thật, thành tựu được Vô-thượng-diệu-viên thức
tâm tam muội…Cái hay của ngài là đứng ngay ở điểm cực-độ của Vọng hóa
mà quán chiếu và đắc quả…
Tóm lại là 7 đại
tức là 7 lớp quang minh, từ Thô đến Tế, thường đột khởi huyễn-hiện
lên từ nơi Chân-không, thường thẩm-thấu lồng vào nhau, vẫn ẩn hiện nhịp nhàng
tương-ứng tùy theo nghiệp-lực chiêu cảm của chúng sanh trong
cuộc.
Để hiểu biết thêm
về Lẽ ẩn-hiện này, thiết tưởng cần lấy tỷ dụ về vài loại chúng
sanh:
Nếu lấy trường
hợp 1 co giun thường sống trong lòng đất và ít khi thấy ánh
sáng mặt trời, thì đối với nó và do nghiệp lực hiên hành chiêu
cảm, vũ trụ y-báo xuất hiện toàn là địa-đại( đất và
đá), thỉnh thoảng pha lẫn một chút thủy-đại hay hỏa đại hay
hư-không…Còn về thân-căn chánh-báo, thì chỉ có địa-thủy-hỏa-phong-không và 1
chút thức-đại thô sơ, và hầu như không có kiến-đại vì đại này chưa nở
ra được. Cho nên, con giun chưa thể nào nghe hiểu được giáo lý Phật,
cũng như chưa thể phát tâm tu hành để làm phát hiện cái Thấy tịnh
diệu, vì ở nơi tâm thức của nó, kiến-đại bị chôn vùi quá sâu.
Đối với loài cá sống
sâu trong nước, thì vũ trụ xuất hiện toàn là thủy-đại, pha
lẫn 1 chút địa-đại và hư-không. Thân căn của chúng thì gồm 5 đại
trước, cộng thêm 1 ít thức-đại thô sơ, còn kiến-đại thì chắc rằng rất
ít và mù mờ…Tuy nhiên, nếu chúng có túc duyên gặp gỡ được 1 bậc Đại
Bồ tát như ngài trưởng giả Lưu thủy( 1 tiền thân của
Phật trong kinh Kim quang minh), và bậc này diễn nói cho nghe về giáo
lý thâm thâm Thập nhị nhân duyên, thì Tàng tức của chúng cũng
có thể bừng nở Kiến-đại tịnh diệu và đi thọ sanh ở cõi trời được.
Đối với chư
Thiên cõi Sắc, thì thân căn của họ toàn là những sắc vi-tế,
không có đại-địa và hầu như cũng không có thủy-địa. Vũ trụ y-báo
cũng xuất hiện gồm toàn những sắc vi-tế…Nếu họ lang bang đi xuống nhân
thế, thì họ có thể nhìn thấy đia-đại và tủy-đại, song những đại này không
lưu ngại thân căn của họ. Nhưng nếu họ ham thích cái vui
nơi nhân thế, và ở lâu nơi đây, thì thân căn lần lần trở
nên thô kệch hơn…Khi đến kiếp hoại, có những thủy-tai hỏa-tai nổi
lên, thì các tầng trời từ đệ-tam thiền trở xuống đều bị tiêu hoại. Song những tầng
trời của đệ-tứ thiền không bị tiêu hoại, vì thân căn cùng tâm thức của
họ đều vi tế hơn.
Đối với chư
Thiên ở cõi Vô-sắc , thì thân căn của họ lâng lâng, chỉ gồm
có không-đại, Thức-đại, Kiến-đại. Vũ trụ y-báo cũng xuất hiện chỉ
có vậy, vì nghiệp lực của họ đã vượt qua các sắc-tướng thô
kệch…Nơi đây quả thật là lâng lâng ít khổ lụy, và các tu sĩ Ba
la môn thường ngày hay dừng chân lại ở các định này, hay thọ sanh ở
cói này. Còn cá vị hành giả tu theo Chánh pháp của nhà Phật
và hiểu biết diệu tâm thì thường hay tránh không muốn
vào những định này, vì sợ bị cám dỗ muốn dừng chân và không tiến
tu lên được nữa để độ sanh.
Loài người chúng
ta thí có đủ các thứ nghiệp hiện hành để chiêu cảm đủ
7 đại…Nên đọa cũng dễ, và muốn tu lên cũng tương đố dễ.
Khi một hành vi giả
vào được Diệt-thọ-tưởng định, thì vẫn còn cái thân-căn gồm thủy-địa-hỏa-phong-không.
Nhưng trong tâm thức, thì Thức-đại không hiện hành, chhir có Kiến-đại hiện
hành.
Đối với 1 bậc Đại
Bồ tát, thì tùy nguyện thọ sanh. Muốn có 7 đại cũng được, hay 1 vài đại cũng được.
Và đại nào cũng vô ngại, vì đều là Diệu-hữu…
Lẽ ẩn-hiệ đó nghiệp
lực chiêu cảm là như vậy….
Rất có thể rằng
trên những trang trên đây, có những điểm suy diễn lệch lạc hơi sai với
ý kinh, nhưng vẫn mạo muội viết ra để góp ý và gợi ý với ban đọc, để thêm phần kiến
giải, mong rằng có nhiều bạn khởi tâm đọc tụng, suy ngẫm về bộ
kinh hy hữu cuẩ Thủ Lăng Nghiêm vương…Vì thiển nghĩ rằng
có hiểu Kinh Lăng Nghiêm, thì sự tu tập hành trì của người Phật
tử mới dễ vững vàng được…
THAY LỜI
KẾT
Kinh Thủ Lăng
Nghiêm Vương bao gồm cả pháp giới cùng các bí-ẩn của pháp
giới hay tâm thức. Nên Chư Phật có diễn nói hoài hủy từ kiếp này sang
kiếp khác, cũng chẳng hết được đạo-lý của Kinh.
Phàm phu chúng
ta chỉ mong hiểu lỗ mỗ được ít điều, để tu tập hành trì, khiến
cho tín tâm được vững chắc hơn, và hạnh nguyện thâm
diệu hơn...
Viết đến đây, cũng
có thể gọi là kết thúc phần DUY TÂM SỞ HIỆN hay ẢNH
HIỆN của Kinh Lăng Nghiêm và của giáo lý Đại thừa.
Theo lẽ ra, tập tiểu-luận
này phải viết thêm 3 chương dài nữa thì mới đầy đủ:
- Một chương để lần
giở lại những trang kinh, và lý giải thêm về những đoạn khúc mắc khó hiểu.
- Một chương để nói
về Ma-chương trên con đường tu Như-huyễn Tam ma đề, cùng sự gia
trì cần thiết của thần chú Đại Phật Đảnh. Vì tu càng cao
bao nhiêu, lại cần sự gia trì bấy nhiêu để khỏi lạc vào sự móng-niệm
của những ý-ma...Trong kinh, Phật ân cần dặn đi dặn lại Ngài A
nan cùng các bậc Thanh văn cần phải trì chú hật Đảnh.
Các ngài là những bậc đã đắc Ngã-không và xứng đáng làm Tổ rồi, mà còn cần
phải trì chú đó, huống hồ là những kẻ phàm phu sanh nhằm thời
mạt-pháp như chúng ta?!
Nên thiết tưởng,
dù chúng ta tu pháp môn gì chăng nữa, cũng cần phải nương
vào thần chú đó, và coi như giới-thân huệ-mạng của mình...Nếu
tu Tịnh độ, cũng cần trì chú ấy và hồi hướng Cực lạc,
vì xưa kia, Phật từng dạy ngài Liên Hoa Minh vương Bồ tát phải trì
chú ấy vào đất cát và rải lên các thây ma để thần thức những kẻ
chết có thể vãng sanh Cực lạc..Nếu tu theo Thiền Đốn ngộ, trừ
phi là bậc tối thượng căn vì lòng từ bi mà thị hiện nơi nhân
thế (như kinh Lăng Già và Hoa Nghiêm có dạy rõ), cũng
chớ nên nghĩ rằng sức quán chiếu Tự-lực của mình có thể đủ gột sạch
những tập-khí vọng-tưởng tiềm phục từ thời vô thủy trong những
nơi hang sâu núi thẳm của biển Tàng thức, và cũng cần phải trì
chú. Vì xưa kia, ngài Hám Sơn thiền xư cũng xác nhận rằng các vị
Tổ Thiền Đốn ngộ phần lớn đều có trì chú cả, có điều là các
Ngài không nói ra mà thôi...
- Một chương để nói
về CON ĐƯỜNG TRỞ VỀ của con CÁ TÍCH muốn
lội ngược dòng vô minh, xuyên qua 5 màn sương mù ngăn
cách là 5 ấm, để trở về chứng nhập Diệu tâm.
Con đường Trở
về tức là NGUỒN THIỀN NHƯ HUYỄN. Nguồn Thiền là một vấn
đề bao la phức tạp, có rất nhiều đường tẻ và dễ gây nhiều ngộ-nhận hư
ngụy, nên cần phải nói về pháp tu Ma ma tha (tức là tu CHỈ,
cũng tức là Quán KHÔNG), về phép tu Tam ma bát đề (tức tu
QUÁN, cũng tức là Quán GIẢ), về phép tu Tam ma đề (tức CHỈ
QUÁN song tu, cũng tức là Song chiếu TRUNG đạo).
Nói về con đường Tu
của 25 vị Thánh trong Kinh Lăng Nghiêm, về 25 phép tu trong kinh Viên
Giác, cũng như về lời dạy của Ngài Mã Minh về chỉ-quán song tu trong
bộ Đại thừa Khởi tín.
Nói về bộ Ma
ha Chỉ quán của ngài Thiên thai trí Khải cùng Lục diệu
pháp môn...Cũng như nói về trạng thái Satori (tức Đốn ngộ hay
là THOÁNG NHẬN THẤY TÁNH của mình) của ngành Thiền
Đốn ngộ. Thực ra, thì trạng thái satori này chẳng phải là ngẫu
nhiên và dễ dàng gì: vì trước khi đó, kẻ hành giả cần tu công
phu quán chiếu lâu năm để thu dọn và chuẩn bị tâm thức của
mình, rồi tới 1 ngày túc duyên tốt đẹp, gặp 1 vọ Tổ dùng phương thức thiện
xảo điểm-hóa cho, phá vỡ cái giòng-biến-dịch-lưu-chuyển thông thường
theo nghiệp lực nở ra của tâm thức, đưa hành giả đột
nhập vào trng5 thái satori, thoáng-ngộ, thoáng-nhận thấy TÁNH của mình. Và
rồi sau đó, còn phải tử-công-phu miên mật, để sống với Tánh, hoặc tu Lục độ
vạn hạnh...như thí cái thân như huyễn hoài hoài trong nhiều kiếp...thì
mới có thể Chứng nhập, tức là nhìn thấy Tánh 1 cách rõ ràng và thường
trực được.
Đồng thời, cũng cần
nói rõ về những khuyết điểm lệch lạc của Thiền ngoại đạo, cùng những thiếu
xót cúa Thiền Nhị thừa khiến cho tâm thức không thể bay bổng tuyệt
vời được...Và thực ra, thì tất cả những con đường đó cũng đều
bị bao trùm bởi giáo lý Như huyễn và Nguồn Thiền Như Huyễn...
Nhưng kẻ viết xin
được tạm ngưng bút nơi đây, và chờ một cơ duyên khác....Vì nếu viết
ra dài quá, thì người đọc cũng dễ ngại ngùng chán nản..Vả lại, thiển
nghĩ rằng nếu hiểu rõ được phần ẢNH HIỆN của giáo
lý Chư Phật, thì có lẽ người Phật tử nào cũng có thể tự tìm lấy
1 con đường Trở về, và lên đường làm con CÁ TÍCH...
NAM MÔ VÔ NGẠI
QUANG NHƯ LAI.
NAM MÔ LIÊN
HOA MINH VƯƠNG BỒ TÁT,
LONG THỌ BỒ TÁT
Trí-Độ-Tử
Tịnh-Liên
Comments
Post a Comment