LĂNG NGHIÊM ẢNH HIỆN
CHƯƠNG 5
CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN GIAI KHÔNG, ĐỘ NHẤT
THIẾT KHỔ ÁCH
6 NHẬP, 12 XỨ, 18
GIỚI LÀ ĐỂ ĐỐI TRỊ NHỮNG KIẾN CHẤP GÌ?- 5 ẤM LÀ GÌ? TƯƠNG XỨNG
VỚI 8 THỨC CÙNG NGŨ TRƯỢC NHƯ THẾ NÀO? – PHÁP MÔN: CHIẾU
KIẾN NGŨ UẨN GIAI KHÔNG, ĐỘ NHẤT THIẾT KHỔ ÁCH.
Trên kia đã nói về
cái vòng huyễn-hiện của Thức biến, về bí-ẩn bộ ba của Căn-trần-thức, về Lẽ
tương-sanh-tương-duyên của chúng tức là Lẽ Đắm nhiễm dính mắc Huyễn-khởi-tương-ưng….đồng
thời đã phân biệt liễu-tri rành rẽ thế nào là Căn, thế nào là Trần,
là Thức, thế nào là vật, là Vi-trần, thế nào là Mộng, là trạng thái Thức…và
nói về lẽ Ẩn-hiện uyển chuyển chập chùng của các ảnh-tượng. Đồng thời, có
nhắc sơ lược về những dữ-kiện khám phá mới của Tâm
linh học…
Thực ra thì nền giáo
lý của Chư Phật Thế TÔng trước sau cũng chỉ cốt dạy chúng
ta 1 LỐI NHÌN, để nhìn mình, nhìn người và nhìn sự vật. đó là lối nhìn Thể-nhập
Trực-chỉ vào CHIỀU SÂU, lối nhìn theo Tự-tâm-biến-hiện, theo nhân-quả nội-tại tự-biến
(causalité immanente etintrinsèque), theo những Tia-chớp-nháng PHỤT RA từ cái
Đà nội-tại của những chủng-tử của Hành-nghiệp, lối nhìn Trung-đạo-song-chiếu, của
Huyễn-khởi-tương-ưng tức là Kiến phần và Tướng phần bao giờ
cũng chuyển-hiện nhịp nhàng và Tương-ưng với nhau…. Kiến-phần và Tướng-phần này
tức là tất cả pháp giới, và cũng tương tự như 2 cánh tay của 1
người, hoặc như 2 cái vòi của con sên. Chúng đều xuất hiện từ cái
thân người hay thân còn sên mà ra, tức là từ cái Một, từ Diệu tâm. Rồi 2
tay múa may theo nhiều thứ vũ điệu lắt lay, tuy có vẻ muôn hình vạng trạng,
nhưng bao giờ cũng nhịp nhàng tương-ưng với nhau.
Vậy thì Chư
Phật bao giờ cũng nhìn theo chiều SÂU, và bao giờ cũng Song-chiếu…Trong khi phàm
phu chúng ta, trôi lăn quá nhiều kiếp, thường chỉ biết có Lối nhìn theo Bề
mặt hay CHIỀU NGANG (vue la té rale hay tangentielle), lối nhìn cách-biệt và
không thể-nhập giữa chủ-thể và khách thể, lối nhìn phân-ly giữa Kiến-phần và Tướng-phần,
lối nhìn theo nhân-quả từ ngoài tới(causalité etintrinsèque) không biết đến cái
Đà nội-tại tự-biến…và do đó nên không có thể biết được tâm-hành song-chiếu và
không hiểu nổi Lẽ huyễn-khởi-tương-ưng….
Lối nhìn này
không phải là hoàn toàn sai, vì nó cũng tóm được 1 khía cạnh của sự vật, tương
tự như anh mù sờ voi. Nhưng vì chỉ tóm được 1 khía cạnh, nên trở
thành 1 lăng-kính méo mó. Khiến lầm tưởng rằng có ngã, có vật thường còn,
có vật này sanh ra vật kia, có vật này CHẠY đến bên kia, có sự CHUYỂN ĐỘNG, như
có tiếng chạy đến bên tai hoặc cái tai chạy đến bên cái tiếng…Do đó, dựng lập
nên nhiều tà-kiến lệch lạc, khởi nhiều tình nhiễm phiền não, mù-mù mịt mịt,
trôi lăn chìm nổi…
Trong khi lối
nhìn của Chư Phật khiến ta có thể NGỤP LẶN vào chiều sâu của những đáy tầng thăm
thẳm, khiến thấy rõ ràng sự vật chỉ có thể là do sự kết tập của
những tia-chớp-nháng Tự-tâm biến hiện, chỉ có thể là huyễn mộng do nghiệp
lực chiêu cảm. Và mọi sự vật đều như-như-tịch-tĩnh, không một cũng không
khác, chẳng đến cũng chẳng đi…Do đó, trôi lần vào Biển Diệu giác, trong
sáng nhiệm mầu, có đại tự tại lực, khởi diệu-dụng vô cùng để độ
sanh và ôm trọn pháp giới…
Bộ ba Căn-trần-thức
này cũng được nhà Phật phân chia xếp hạng ra thành 6 Nhập, 12 Xứ, và
18 Giới.
Tại sao lại cần phân
chia xếp hạng ra thành nhiều lối như vậy, khiến cho người học dễ băn khoăn
lạc lối?
Sở dĩ cần làm
như vậy, là vì mỗi lối xếp hạng cốt nhằm nhấn mạnh vào 1 khía cạnh của
lối nhìn:
a)-6 NHẬP là
để nhấn mạnh vào tính tách Đắm nhiễm-dính-mắc Tương-sanh-tương-duyên
Huyễn-khởi-tương-ưng giữa Căn bà Trần. nhằm gột sạch những kiến chấp phân ly
cách biệt giữa căn và trần…
Tính cách này
rất quan hệ, nên trong những pho Đại Bát nhã còn nhấn mạnh thêm
và nói về Nội-ngoại không…Nội tức là Căn, và Ngoại là Trần. cả 2 rốt ráo cũng
đều là Không cả, và dĩ nhiên là cái gạch nối-liền (tức là Thức) cũng
là Không.
b)-12 XỨ là để
làm gì?
Là để gột bỏ kiến
chấp của phàm phu về vị trí XỨ SỞ (localisation) của
Căn và Trần.
Phàm phu thì thường
có tâm thô kệch, thích níu lấy những hình tướng thô kệch.
Nên thường nghĩ rằng cái thấy tức là cái mắt của ta, cái nghe là cái tai của
ta, 2 cái ấy đều có hình tướng rõ rệt, tức là có vị-trí xứ-sở rõ rệt…Và
Trần thì là cái bàn cái ghế, miếng thịt, cốc rượu…., tức là có vị trí xứ
sở rõ rệt.
Chấp trước như
thế thì tâm thức bị trở ngại, khó thể hiểu nổi lẽ CHI BIẾN KHẮP GIÁP
của Căn và Trần.
Cần luôn nhớ
rằng cái Thấy vượt sâu hơn mắt, vượt sâu hơn cả tịnh-sắc-căn, vượt sâu hơn nữa
và DÍNH với tâm. Vì nó chính là những quang minh của Tâm hay của Thức
chuyển-hiện thành. Nên nó chu-biến-khắp-giáp cả pháp giới…Cái nghe cũng vậy, vượt
sâu hơn tai, hơn tịnh-sắc-căn, dính với Tâm và chu biến khắp giáp.
Luôn nghĩ nhớ như vậy, thì Tâm mở rộng ra, và các Căn cũng mở rộng ra.
Các Trần cũng
vậy. chúng đều vượt qua cái hình tướng thô-kệch của chúng,
và dính mắc với pháp giới cùng Tâm. Vì chúng cũng đều là do quang
minh của Tâm hay Thức dệt thành.
Do đó nên 1
Căn hay 1 Trần cũng đều chu biến khắp giáp, dung-thông-thẩm-thấu với pháp
giới. vì thế, mới có thể huyễn hiện TƯƠNG ƯNG được. nếu là cách
biệt, làm sao tương ưng?!?
Vì thế,
trong kinh Lăng Nghiêm , Phật mới ân cần dặn rằng: cả 12 XỨ
SỞ đều là LUỐNG DỐI cả, chẳng phải là nhân-duyên sanh ra, cũng chẳng phải ngẫu
nhiên (tự nhiên) mà có, vì chúng đều là huyễn-hiện tương ưng…Và cả sự CHUYỂN
ĐỘNG cũng vậy. chuyển-động cũng là 1 ảo giác, 1 vọng-tưởng khởi lên do
cái vọng thức phân biệt về xứ sở. Nên cũng luống dối vậy.
C)-18 GIỚI là để
làm gì?
Là để dạy chúng
ta biết cách LIỄU TRI RÀNH RẼ trong cái màn huyễn-hiện dính mắc trùng
trùng ấy.
Giáo lý nhà
Phật bao giờ cũng là như vậy. Bao giờ cũng dạy SONG CHIẾU TRUNG ĐẠO. Không
bao giờ dạy một bên cả.
Bởi thế, nên
sau khi dạy về sự dính mắc đắm nhiễm của cái màn huyễn-hiện ấy, thì lại dạy rằng:
tuy nó dính mắc như vậy, nhưng kẻ hành giả vẫn biết liễu tri rành
rẽ, và trong khi liễu tri vẫn không quên sự dính mắc..Đó là phép quán
Giới phân biệt của nhà Phật. Để biết rõ thế nào là Căn, thế nào là Trần,
thế nào là Thức, và Thức xuất phát từ Căn nhưng tương tợ với Trần ra
sao?!?
Song chiếu trung
đạo thì mới có thể trôi lần vào biển Diệu giác được.
Tóm lại, thì
1 trong những mục tiêu chính của Kinh Lăng Nghiêm là cốt dạy chúng
ta biết quán chiếu về cái bí-ẩn Bộ Ba Căn-Trần-Thức..vì cửa ngõ
của sanh tử cũng là do Căn-Trần-Thức, và cửa ngõ của Niết bàn cũng
là Căn-Trần-Thức. Cần phải hiểu cái Lẽ Đắm-nhiễm dính mắc tương sanh
tương duyên của chúng, cái Lẽ Vô-xứ-sở của chúng, lại phải biết liễu tri rành
rẽ, phải hiểu chúng chỉ là những ảnh-tượng huyễn-hiện tương ưng cảu những quang
minh vi tế của Thức sơ-năng-biến….thì mới có thể thâu tóm chúng trở
về Như-lai-tạng Chân-như nhiệm màu được…Nếu không như thế, làm sao trở
về cái MỘT??
Căn-Trần-Thức
tức 6 nhập, 12 xứ, 18 giới đã nói rồi. Nay nói đến 5 ấm và 7 đại…
5 ẤM, 7 ĐẠI LÀ NHƯ
THẾ NÀO?
Để hiểu
rõ thêm những lời dạy về Pháp-giới của Kinh Lăng Nghiêm, thiết tưởng
cần nói thêm về 2 cách xếp hạng (classification) khác của nhà Phật, tức là 5 ẤM
và 7 ĐẠI.
Thực ra thì
5 Ấm hay 7 Đại cũng chỉ là Căn-Trần-Thức, nhưng xếp hạn theo những khía-cạnh
khác, để dạy chúng ta quán chiếu theo nhiều khía cạnh (theo rộng
hay hẹp, từ ngoài nhìn vào hay từ trong nhìn ra, từ hữu hình vào
vô-hình hay trái lại, hoặc từ thô kệch vào vi-tế hay ngược lại…)
Suy tư lâu rồi, thì sẽ thấy tính cách tương-xứng (correspondance) giữa
5 ấm hay 7 đại với Căn-Trần-Thức.
Tất cả những
lối xếp hạng này, đều nhằm ĐỐI TRỊ các mức độ căn cơ mê muội của chúng
sanh.
Đối với những chúng
sanh nào còn mê muội nhiều về tâm thức, chưa biết liễu
tri rành rẽ về các tầng lớp tâm thức, thì giáo lý nhà Phật
dạy về 5 ẤM, thu hẹp mọi sắc tướng lại thành 1 ấm tức là sắc-ấm, và
trải rộng tâm thức ra thành 4 ấm tức là: thọ tưởng hành và thức.
Đối với những chúng
sanh nào còn mê muội nhiều về sắc-tướng, chưa biết liễu tri rành
rẽ về các tầng lớp của sắc-tướng, thì giáo lý nhà Phật dạy về 7 ĐẠI,
thu hẹp tâm thức lại thành 2 đại là kiến đại và thức-đại,
và trải rộng ra sắc-tướng ra thành 5 đại-chủng tức là: địa thủy hỏa phong
không.
Còn đối với
những chúng sanh nào có những tập khí mê muội đồng đều về
cả Danh (tức tâm thức) lẫn Sắc, thì giáo lý nhà Phật dạy về bộ
ba Căn-Trần-Thức, về 6 nhập, về 12 xứ, về 18 giới…về tính cách dính mắc
khắp giáp của chúng và về Lẽ huyễn khởi tương ưng.
Và đối với những chúng
sanh nào muốn quán chiếu biết rõ những cơ-cấu vận hành của tâm
thức, thì giáo lý nhà Phật dạy về 8 thức, và Duy Thức học…
Và tất cả những
thứ đó, dù là ấm hay đại hay Căn-Trần-Thức…cũng đều chỉ là những màn sương mù
huyễn-hiện ngăn che Diệu tâm, ngăn cách khiến cho chúng sanh khó lên
đường trở về Diệu tâm…
Đại để là như
vậy.
NÓI VỀ 5 ẤM
Cũng như
Căn-Trần-Thức, 5 ấm này dính mắc khắp giáp với cả pháp giới. vì chúng cũng
chính là pháp giới.
5 ấm tức là 5
tầng lớp QUANG MINH, từ thô kệch đến vi-tế, đã DỆT nên pháp
giới này. Và quang minh ấy đều được phát xuất ra từ vô thủy,
bởi 5 thứ VỌNG TƯỞNG đã được nói đến trong Kinh Lăng Nghiêm: vọng-tưởng kiên
cố, hư minh, dung thông, u ẩn và hư-vi-tế. phân biệt liễu
tri về 5 ấm không phải là một việc dễ dàng, và nhiều người học Phật vẫn thường
còn mơ hồ lầm lộn…
a)-Vậy 5 ẤM gồm những
gì?
Trước hết
là SẮC ẤM.
Sắc-ấm này
thì tương đối có thể tạm coi là dễ hiểu. nếu ta lấy tỷ dụ là
1 chúng sanh A, thì đối với chúng sanh A, sắc-ấm chính
là thân căn chánh báo của A cộng với tất cả những ngoại-sắc y
báo XUẤT HIỆN trước 6 căn của A.
Còn những ngoại-sắc
nào ở xa vời, chưa xuất hiện trước 6 căn của A, thì chỉ dính mắc với Tàng
thức của A mà thôi, nên không gồm trong sắc-ấm của A.
Cần nhớ rằng
cái Tướng-phần này, tuy gọi là tướng phần, tuy là thô kệch, nhưng
cũng là do quang minh của Thức biến dệt nên, do đó nó cũng
CHIẾU SOI. Nhưng sức chiếu soi của nó chỉ lù mù hạn hẹp, thua xa với sức chiếu
soi của cái Kiến-phần của A.
Nhưng trong
cái màn huyễn-hiện của Tướng phần của A này, lại gồm không những các
ngoại sắc, mà còn gồm rất nhiều những chúng sanh hữu-tình khác. Hữu
tình thì có sắc tướng và có tâm thức chiếu soi…Mỗi hữu
tình là 1 trung-tâm phản ánh và chiếu-soi (focus hay foyer de ré ver bé
ration), 1 trung tâm ảnh-hiện làm LÓE lên những ảnh-tượng do nghiệp
lực chiêu cảm. và không những hữu-tình chiếu soi, ngay cả đến phi-tình-thần-thức
của các thứ tạm gọi là vô-tri, cũng chiếu soi nhưng lù-mù hạn hẹp…Chúng
sanh A chiếu soi sự vật cùng các chúng sanh khác, nên sự vật
cùng chúng sanh khác đều bị phản chiếu và hiện hữu trong tâm
thức các chúng sanh khác cũng như trong phi-tình-thức-giác của vật vô
tri.
Cho
nên, pháp giới là 1 màn huyễn-hiện không ngằn mé của trùng-trùng điệp-điệp
những trung-tâm chiếu soi cùng ảnh-hiện giao xen và thẩm thấu lẫn
nhau.
Trong các
kinh, Sắc-ấm thường được ví như BỌT NƯỚC. giả hợp hội tụ lại thành
hình tướng đáp ứng với các giác quan. Nhưng rồi lại tan,
vì không thật có.
Thứ 2
là THỌ ẤM
Thọ -ấm tức
là cái màn sương mù, dệt nên bởi những quang minh HƯ MINH,
thuộc về tịnh-sắc-căn của 5 căn trước hay 5 thức trước. quang minh này tương
đối vi-tế hơn quang minh của sắc-ấm.
Lớp quang
minh này thuộc về KIẾN PHẦN của chúng sanh A. nhưng nó
ở phía ngoài bìa (pé ripherie), nên tương đối là lớp kém vi-tế của tâm
thức.
Màn sương mù
này thường làm khởi lên những CẢM GIÁC hay CẢM THỌ.
Cảm giác hay cảm
thọ này, nếu khởi lên mà không tình nhiễm hay rất ít tình-nhiễm (Non les
té d’affectivi té như yêu ghét vui buồn…), thì là những cảm
giác thuần phác thanh tịnh. Nên quang minh của nó gồm nhiều
Kiến-đại hơn là Thức-đại. Tức là khinh thanh sáng láng nhẹ nhàng hơn, có vẻ đứng
lặng ít lăng xăng giao động. Tần-số rung chuyển chắc cũng cao hơn, và
có lẽ chiều hướng chuyển động xoáy-tròn-trôn-ốc (tendance au mouvement
gitatoire en spirale) cũng ít hơn.
Vì cảm
giác thuần phác ít tình nhiễm, nên nó cũng tương đối dễ thể-nhập
dung thôn với Tánh cảnh của sự vật hơn.
Những cảm
giác này sẽ rớt vào kho Tàng thức để huân tập cho phần
Tịnh thức của Tàng thức..Cảm giác không tình nhiễm dĩ nhiên là
không tạo nghiệp, hoặc là tạo 1 thức bất-động mà thôi (karma d’immobili té).
Nghiệp bất-động là tập-khí đưa lần tâm thức vào trạng thái lặng
lẽ của thiền định, để sau này có thể thọ sanh ở cõi Sắc-giới.
Nhưng trái
lại, phần lớn cảm giác hay cảm thọ của chúng sanh đều
là vương vấn tình nhiễm nặng nề, đều ô-nhiễm bất tịnh…Nên chúng gồm nhiều thức-đại
hơn là kiến đại. Thức đại này không phải là Thức sơ-năng-biến, mà là thức
đã chuyển hiện qua mấy tầng vọng hóa rồi….Vì nhiều vọng, nên trọng trược kém
sáng láng, dễ da động lăng xăng. Tần-số cũng thấp hơn, và nhiều khuynh hướng
xoay tròn thắt gút.
Những cảm
thọ này cũng đều rớt vào Tàng thức, huân tập thành những
cơn-lốc quanh minh xoáy tròn của Vọng-thức, những tập khí chủng-tử của ÁI
DỤC, tới khi chín mùi sẽ hiện hành NỔI lên, bồi dưỡng cho
Hành-ấm, để làm PHỤT lên những tia-chớp-nháng của nghiệp lực.
Vì nhiều vọng,
nên khó dung thông thể nhập với Bản tánh của sự vật.
Trong các
kinh, thường ví dụ Thọ-ấm như BONG BÓNG NƯỚC, tức là những bọt-tăm sủi lên
từ lòng nước, làm khuấy động nước, rồi lại tan đi.
Thứ 2
là TƯỞNG ẤM.
Tưởng ấm tức
là cái màn sương-mù DÀY ĐẶC, dệt nên bởi những quang minh DUNG THÔNG của
thức thứ 6 tức ý-thức…..Quang minh này tương đối vi-tế hơn quang
minh của Thọ-ấm, vì nó có thể dung-thông cả trong lẫn ngoài. Nhưng do những
tập-khí ô nhiễm vọng-hóa từ vô-thủy, các quang-minh này lại hay
lăng-xăng-giao-động để so-đo phân-biệt, và do đó, trở thành 1 yếu
tố quan hệ khiến chúng-sanh bị trôi-lăn lưu chuyển.
Tưởng-ấm cũng
thuộc về KIẾN PHẦN, và nằm sâu hơn Thọ-ấm.
Màn sương mù
này thường làm khởi lên đủ mọi thứ TÂM TƯỞNG như là: tri-giác
(perception), suy tư (pen sé e), hồi tưởng (ré miniscence), ức-niệm
(memory), tưởng tượng (imagination), dự-tưởng (anticipation), danh ngôn (
đặt tên cho mỗi vật), biểu-tượng (rep ré sen tation)….Do đó, nó tượng
trưng cho cái khuynh hướng biến-kế-sở-chấp trong Duy-thức học, tức là
suy-lường phân-biệt so đo. Vì suy-lường phân-biệt nhiều, nên chồng chất chằng
chịt nhiều tầng Vọng, ngày càng xa cách với Bản tánh sự vật.
Những tâm-tưởng
này, nếu khởi lên mà không tình-nhiễm hay rất là ít tình-nhiễm, thì là những tâm
tưởng thuần-phác thanh-tịnh. Nên quang-minh sẽ gồm nhiều Kiến-đại hơn là
Thức-đại…Và những tâm-tưởng thanh-tịnh này sẽ rớt vào Tàng-thức, huân
tập cho phần Tịnh-thức trong Tàng-thức.
Nhưng
trên thực tế, thì phần lớn chúng sanh ít khi có nổi những
tâm-tưởng thuần-phác thanh-tịnh. Vì tâm tưởng vốn chính bản thân nó
đã là khởi vọng rồi, lại thường hướng về cái Nhiều của Ngoại vật,
nên ít khi thanh-tịnh…Chỉ trừ những khu chúng-sanh suy ngẫm về
giáo-lý của Chư Phật, suy ngẫm về Lẽ Duy-tâm sở hiện, hoặc tưởng-niệm Chân-như,
về Diệu-tâm, tưởng-niệm Chư Phật hay Đức A-Di-Đà, Đức Quán-Thế-Âm hay cõi Cực-lạc…,
thì những tâm-tưởng ấy không hàm chứa phàm tình mà hàm chứa THÁNH
TÌNH. Thánh tình tức là cái ình BÌNH-ĐẲNG, có chiều hướng xa lìa cái
ngã cùng cái Nhiều để trở về cái MỘT.
Vậy thì phần
lớn tâm tưởng của chúng-sanh đều nặng phàm-tình nên không thanh-tịnh…Ngay cho
đến những tâm tưởng tu các hạnh lành, nếu còn lòng mong cầu
theo cái ngã hoặc cái Nhiều của ngoại vật, nếu không biết hướng
về Bồ-đề-tâm, về Diệu-tâm, về lẽ Như-huyễn cùng Tự-tâm biến-hiện, thì vẫn là
chưa thanh-tịnh, vẫn còn là ma-nghiệp như Kinh Hoa-Nghiêm đã dạy.
Và những
tâm-tưởng không thanh-tịnh này gồm nhiều thức-đại ít kiến-đại, và đều tạo nghiệp.
chúng đều rớt vào Tàng-thức, huân tập thành những cơn-lốc quang-miinh
xoáy tròn của Vọng-thức, những tập-khí chủng-tử của TƯ…Rồi tới khi chín mùi sẽ hiện
hành NỒI lên, bồi dưỡng cho Hành-ấm, để làm phụt lên những
tia-chớp-nháng của nghiệp-lực.
Ở nơi Tưởng-ấm
này, thì thức-đại cũng không còn là Thức sơ-năng-biến, vì đã chuyển hiện qua
nhiều tầng vọng-hóa chằng chịt rồi.
Trong các
kinh, thường ví Tưởng-ấm như ÁNH NẮNG CHÓI…Là vì ánh nắng của
Vọng NUNG NẤU nhiều tầng, khiến cho con mắt bị chói chang, và làm huyễn-hiện
nhiều thứ HOA ĐỐM cùng ẢO ẢNH nước ở nơi sa mạc.
Màn sương mù
Tưởng-ấm này thường tạo dựng những hoa đốm cùng ảo ảnh, tức là
những ảnh-tượng hay cảnh giới do nhiều từng vọng hóa dệt
nên…Nên Duy thức học gọi các ảnh-tượng ấy là ĐỘC-ẢNH-CẢNH. Độc-ảnh-cảnh
này có 2 loại: một là ngũ-câu-độc-ảnh, trong đó ý-thức phối hợp với 5
thức trước, nhặt nhạnh những cảm giác lẻ-tẻ đơn-sơ của 5 thức, để kết
tập thành 1 ảnh-tượng nương theo những tiền trần, rồi IN ảnh-tượng ấy
lên đám hội-tụ tiền-trần và gọi nó là Vật.
Hai là Độc-đầu-ảnh-cảnh,
trong đó, ý-thức không dùng những cảm giác của ngay lúc đó, mà chỉ
dùng ức-niệm (hay ức-tưởng tức memory) để khởi lên những bóng-dáng-tiền-trần (lạc-tạ-ảnh-tử)
và tạo dựng những ảnh-tượng trong trí nhớ. Đó là trường hợp thông
thường của đa số thế-nhân…Nhưng đôi khi cũng có những nguoi27m do
túc-duyên đặc-biệt tu-tập từ tiền-kiếp, nên có thể thấy ở nơi tâm-thức
lãng-đãng NỔI lên những bóng dáng tiền-trần rớt lại từ kiếp
trước (ré miniscences). Và họ đã dùng ngay những bóng dáng ấy để kết
tập nên những ảnh-tượng độc-đầu, mặc dù vẫn có thể có sự pha lộn
giữa những bóng dáng của kiếp này và kiếp trước.
Thứ 4 là HÀNH ẤM.
HÀNH ẤM này
tức là cái màn-sương-mù MỊT MÙNG và rất vi-tế, dệt nên bởi những quang-minh U-ẨN
của thức thứ 7 tức Mạt-na thức.
Thức này,
theo danh-từ ngày nay, có thể gọi là Tiềm-thức. nó nằm ở 1 bình diện mịt-mùng
u-ẩn, khá SÂU trong tâm-thức, nên sự liễu-tri phân-biệt về 3 thành phần căn-trần-thức
của nó cũng khá khó khăn tế-nhị.
Đối với ý-thức,
thì Mạt-na thức chính là Căn của ý-thức, và nó làm khởi lên ý-thức…đối
với 5 thức trước, thì nó cũng có thể coi là tịnh-sắc-căn của 5 thức. và sở
dĩ nó đã chuyển hiện khởi lên 6 thức ấy, là để quờ-quạng dò-dẫm nhận-thức
cái Tướng-phần bên ngoài tức thế-giới bên ngoài.
Nhưng còn đối
với chính nó, ở nơi bình-diện mịt-mùng của những quang-minh hay vọng-tưởng u-ẩn,,
thì Mạt-na thức có căn, có trần và có thức riêng biệt gì hay không?
Điểm này khó liễu
tri, vì bình-diện ấy nằm sâu và gần nơi BỜ MÉ, nên 3 thứ đó lần lần muốn chụm lại
để trôi vào cái Một…Tuy nhiên, vẫn có thể suy-diễn để liễu-tri
phân-biệt.
Vể CĂN, thì
có thể nói theo ngài Thái Hư rằng não-bộ và hệ-thống thần-kinh là
phù-trần-căn của Mạt-na thức. còn tịnh-sắc-căn của nó, tức là cái Kiến-phần
sáng láng của Tàng-thức đã được chuyển hiện xuống thấp hơn 1 bực, và nó thường
chấp cái kiến-phần ấy làm cái ngã-tâm, tức là cái chiếu-soi và hay biết của
mình…
Muốn hiểu
rõ hơn 1 chút về nơi bờ-mé mịt mùng này, cần nhớ rằng Tàng-thức bao hàm cả
Chân lẫn Vọng. Phần Chân tức là những quang minh vô-tướng-mạo, chuyển
động cực kỳ thần-tốc và LẬP TỨC ứng-hiện, nên gọi là vô khứ-vô-lai.
Nhưng Duy-thức học lại gọi là VÔ CHẤT TÁNH CẢNH tức là Chân-tâm hay Chân-thức.
Còn phần Vọng
là những quang-minh đã nhuốm vọng rồi nên Hiện tướng và gọi là Hiện
thức. chúng chuyển động cũng tương-đối hết sức thần-tốc, nhưng đã rớt
vào thời-gian tính, nên có-đến-có-đi. Và Duy thức học gọi phần này là
HỮU CHẤT TÁNH CẢNH.
Phần Vọng
này, tuy đã nhuốm vọng, nhưng còn rất là hư-vô-vo-tế, vì mới chỉ khởi câu-sanh
Pháp-chấp thôi, chưa có câu-sanh ngã-chấp.
Nhưng 1 khi
đã hàm chứa vọng rồi, thì đều xoáy-tròn trôn-ốc, và xoay vần miên-viễn….Và trên
lịch-trình xoay vần miên-viễn này, thì phải phân-ly và chuyển-hiện thành 2 phần:
1 Kiến-phần khinh thanh sáng láng hơn và 1 Tướng-phần trọng trược kém sáng
láng.
Kiến-phần
cũng gồm cả Chân lẫn Vọng, cả Vô-chất tánh cảnh lẫn Hữu-chất tánh cảnh, nhưng
nhiều Vô-chất hơn.
Tướng-phần
cũng gồm cả Chân lẫn Vọng, cả cả Vô-chất lẫn Hữu-chất, nhưng nhiều hữu-chất
hơn..
Nay trở
về với Mạt-na thức, thì tịnh-sắc-căn của Mạt-na tức là Kiến-phần của
thức thứ 8 nhưng đã chuyển-hiện xuống thấp hơn 1 bực. Vì xuống thấp hơn, nên gồm
cả chấp Pháp và chấp Ngã, nhưng thiên trọng về chấp Ngã hơn.
Vậy thì phù-trần-căn
cùng tịnh-sắc-căn của Thức thứ 7 là như vậy.
Còn TRẦN của
nó thì là gì?
Thức thứ 7 vốn
là 1 CỘT GÚT kiên-cố chấp ngã, 1 tấm lăng kính cong, nên trên đà mê mờ, nó
không thể duyên nổi, không biết nổi Diệu-tâm tức Chân-thức….Nó có lẽ cũng không
thể nhận rõ nổi cái tự-thề nguyên-lai của nó là ở nơi Kiến-phần của Thức thứ 8
mà mọc ra.
Tóm lại, có lẽ
nó chỉ có thể lờ mờ nhận biết cái phần Khinh thanh sáng láng nhất
trong Kiến-phần của Thức thứ 8, và lấy cải đó làm ngã-tâm của mình. Đồng
thời, nhận biết cái phần Hữu chất trọng-trược nhất trong Kiến-phần của
Thức thứ 8, và nhận cái đó là Ngã-tướng của mình.
Rồi thì
ngã-tâm cùng Ngã-tướng của Thức thứ 7, cùng hợp lại để chiếu-soi
xoay-vần miên-viễn. Và trên đà xoay vần, nó lại tự phân-ly ra làm 2 phần:
Kiến-phần năng chiếu soi, và Tướng-phần bị chiếu soi.
Về Tướng-phần
này, Duy-thức học gọi là ĐỚI CHẤT CẢNH, và nó chính là TRẦN hay cảnh giới của
Thức thứ 7…Gọi là Đới-chất, là vì nó đã mang hình chất rồi. so với Hữu-chất
tánh cảnh, thì nó trọng trược thô kệch hơn. Nhưng so với những hình
chất của Sắc-ấm hoặc với những ảnh-tượng của Tưởng-ấm, thì nói còn rất là khinh
thanh vi-tế. Nên gọi là u-ẩn.
Vậy còn THỨC
của Mạt-na là như thế nào?
Đã có Căn và
Trần rồi, thì dĩ-nhiên là có Thức. Nhất sanh nhị, rồi nhị sanh tam…Và
Thức của nó tức là những sở-hành chiếu soi thẩm thấu giữa Kiến-phần
và Đới-chất- cảnh tức Tướng phần. Đó cũng là 1 công-phu nhận-thức
thâm-mật vi-diệu, chuyên chú trọng phân-biệt giữa ngã và phi-ngã…Tuy
nhiên, đã kém sút xa so với khả năng trực-giác thâm-mật của Thức thứ 8.
Tóm lại,
thì Mạt na thức không những làm khởi lên được thức thứ 6 cùng 5 thức
kia, để quờ quạng mò mẫm pháp giới bên ngoài, nhưng ở ngay
bình-diện của nó, nó vẫn có 1 thứ thức thâm-mật riêng để nhận thức giữa
ngã cùng phi-ngã.
Rồi thì, từ
nơi bình-diện u-ẩn đó, do sức hành chấp Ngã và chấp Pháp của
những chủng tử nghiệp-lực nổi lên, HÀNH ẤM tức Mạt-na
thức liên miên làm PHỤT lên những tai-chớp-nháng làm nguồn gốc cho Tưởng-ấm,
Thọ-ấm và Sắc-ấm. Và sự hiện-hành trôi-lăn-lưu-chuyển như thác đổ của Hành-ấm
cũng khiến cho 3 ấm kia phải trôi-lăn lưu chuyển…
Theo Duy-thức
học, thì sự phụt lên của Hành-ấm thường thẩm-thấu và suy động 49 tâm-sở (tâm-sở
vốn có 51, nhưng trừ ra 2 là Thọ và Tưởng thuần-phác thanh-tịnh thì
không bị sức chi phối của Hành-ấm), và đồng thời suy động cả
24 pháp Bất-tương-ưng-hành…Nhưng thực ra thì Hành-ấm thẩm-thấu và suy
động cả Sắc-ấm, khiến cho sắc-thân tứ-đại chậm bị tan rã. Là vì mạng-căn của
1 chúng sanh thường được chi-phối gìn giữ của Tàng-thức này
được thực-hiện qua trung-gian của Truyền-tống thức thức Mạt-na thức.
Màn sương mù
của Hành ấm thường được bồi dưỡng bởi những mầm Ái dục và
Tưởng tư của Thọ-ấm cùng Tưởng-ấm. các mầm này đếu rớt vào Tàng-thức, kết lại
thành những tập-khí chủng tử, rồi hiện hành nổi lên bồi dưỡng cho
chính nó. Vì càng phụt lên bao nhiêu, thì nó càng tạo nghiệp bấy nhiêu, càng xoắn
lại thành cột-gút rớt vào Tàng-thức, rồi chín mùi hiện hành nổi
lên bồi dưỡng cho chấp Ngã ngày càng kiên-cố.
Vì bị sự chi
phối miên mật và chặt chẽ của chấp Ngã, nên những tâm hành của
chúng-sanh ít khi được thuần-phác thanh-tịnh. Chỉ trừ những khi
nào, chúng sanh ấy biêt quán-chiếu theo Chân-lý Đại thừa, để
lãng đãng khởi lên những tâm-niệm theo chiếu-hướng Vô-ngã, như-huyễn, Bình-đẳng,
Đại-bi và Song-chiếu Trung-đạo….
Thứ 5 là THỨC ẤM.
Thức-ấm tức
là cái màn-sương-mù rất là hư-vô vi-tế, dệt nên bởi những quang minh kỳ-ảo vi
tế cuả Tàng thức, tức là những vọng-tưởng hư-vô vi tế đã được
nói đến trong Kinh Lăng Nghiêm.
Chỉ có những hành
giả tu hành khá cao, đã được gần như vong thân hoặc tiêu dung được chấp
Ngã, mới bắt đầu nhận thấy những quang mminh này cùng những sở-hành của
chúng.
Bởi thế, nên
bài tụng-ngôn của Duy thức học thường nói : “Khó có thể biết được đối-tượng nhận
thức, hình thái nhận thức tức là cái khả năng trực-giác thâm mật của
nó, tức là THỨC nhận biết. đối-tượng nhận thức tức là cái Tướng-phần
bị nhận biết, tức là TRẦN cảnh. Và lãnh vực biểu hiện, tức
là cái diễn trình phân-ly của Thức thứ 8 thành Kiến-phần, tức là CĂN và TRẦN.
Tàng thức này,
theo danh từ ngày nay, có thể gọi là VÔ THỨC. Và chính ngài Bồ-Đề-Đạt-Ma
cũng đã dùng danh từ Vô thức để chỉ cho Thức này.
Thức này bao hàm cả
Chân lẫn Vọng. Vì cứ chuyển được Vọng thì thành Chân.
Phần Chân
là Chân thức, là Vô chất tánh cảnh, bất khả tư nghì, bất khả ngôn
thuyết…là lãnh vực của Viên-thành-thật-tánh.
Phần Vọng là
Hiện-thức, là Hữu chất tánh cảnh, là thức căn-nguyên, là Căn-bản-thức, là thức
Sơ-năng-biến…là lĩnh vực của Y-tha-khởi-tánh. Và nơi đây, còn có thể nghĩ bàn
nói năng đôi chút được.
Nơi đây là bờ-mé
của Sanh nhập vào Vô sanh, của Phổ-huyễn tế nhập vào Chân-thật-tế, của Nhiều
nhập vào Một. nên nơi đây là cái Biển mịt mùng của những chủng-tử cực kỳ nhỏ
nhiệm vi tế, chưa chuyển hiện thành chấp Ngã, và mới chỉ
có chấp PHÁP thôi.
Lãnh vực của
những chủng tử kiến chấp và ma chướng giữa Pháp và
phi-pháp. Như là: chấp là có đấng sáng tạo, chấp có Thần ngã hay
không thần-ngã, có Minh-đế hay không minh-đế, chấp có 1 thứ Đại-chủng
(như Thời gian hay Cực-vi…) sanh ra thế giới hay là
không chân thường chu biến, chấp có Tự thể hay không tự-thể
(Being oa Not-being), chấp có chứng đắc hay không chứng đắc,
chấp cảnh giới là thật có hay là giả…Đại để những chấp pháp vi
tế là như vậy, và chúng đã làm khởi lên các thứ ma-chướng thuộc Thức-ấm đã
được nói đến trong Kinh Lăng Nghiêm.
Tàng thức này gìn
giữ mạng-căn cùng khí thế giới, làm phát hiện thân căn cùng
khí thế giới. nó cũng chuyển-hiện nên 7 thức kia…Cho nên, thân căn cùng quốc
độ y báo của mỗi chúng sanh chỉ là 1 màn huyễn-hiện của nghiệp
lực quá khứ nở ra từ Tàng thức của chúng sanh ấy.
Thiết tưởng cần
nêu ra câu hỏi: ở nơi bờ mé này, liệu Tàng thức ấy có tự-chiếu-soi (tự-chứng)
để phân ly ra thành CĂN TRẦN THỨC hay không? Và nếu có, thì làm sao
mà biện biệt liễu tri giữa 3 thứ ấy?
Vấn đề dĩ
nhiên là khó…Nhưng cũng có thể nương theo thánh ngôn lượng của kinh
luận, để nói năng ức-đạc một vài điểm.
Về CĂN thì có
thể rằng: cái biểu-tượng thô phù (tức phù trần căn) của Tàng thức nằm
ở điểm trung tâm nơi giữa 2 chặng mày. Đối với phàm phu chúng
ta, nơi đó chỉ là 1 làn da, chưa có hiện tướng gì hết. Nhưng đối với
những bậc tu đã cao, lần lần có thiên nhãn, huệ nhãn hay pháp
nhãn…(tức là các thứ Tâm-nhãn), thì nơi đó lần lần hiện tướng. nghĩa là mọc
ra những chòm lông. Khi đạt tới bậc Thập địa, hay Đẳng giác,
hay Diệu giác, thì thành ra tướng Bạch hào, có 5 chòm lông dài, rỗng
suốt và trong như lưu ly, xoay tròn về phía hữu.
Theo lời cổ
đức, thì tướng đó là biểu-tượng cho Trung-đạo nhân-tâm, cho Trung-đạo song chiếu,
cho Chân-Vọng hòa hiệp, cho Không-Giả hòa hiệp. Là biểu tượng cha Tâm
nhãn, cho Tàng thức bao gồm cả vọng lẫn chân.
Phật cũng thường phóng
hào quang từ nơi Bạch hào Trung đạo song chiếu ấy để độ
sanh.
Nhưng tới
khi Tàng thức đã gột sạch mọi vi-tế vô minh ô nhiễm, để
chuyển thành Vô-cấu-thức rồi Bạch tịnh thức (tức là Chân thức),
thì cái biểu-tượng thô phù của Chân thức không phải là tướng Bạch
hào, mà là tướng Nhục-kế VÔ KIẾN ĐẢNH.
Cũng bởi thế,
nên trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật dạy rằng: nếu kẻ hành giả muốn
quán Chân-thân Đức Phật A-Di-Đà, thì trước tiên nên quán tướng bạch
hào. Khi nào tướng bạch hào xuất hiện rõ rệt lồ lộ trong tâm
thức hành giả, thì các tướng khác cùng 80 vẻ đẹp tùy hình sẽ lần lần hiện
ra…Là vì 1 khi tướng bạch hào hiện ra rõ rệt, tức là tâm thức hành
giả đã lọt được vào Tàng thức và nhìn thấy những quang minh hư-vô-vi-tế,
nên các tướng khác cũng lần lần hiện ra.
Nhưng mỗi khi
Phật hay Đức Quán Thế Âm nói thần-chú, tỷ dụ như
trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, thì Phật lại phóng hào quang từ nơi
Vô-kiến-đảnh, rồi hiện ra Hóa-Phật ngồi ở nơi đó, để tuyên xướng thần
chú…Là vì Vô kiến đảnh là biểu tượng cho Chân như, Chân
thức hay Diệu tâm, và thần-chú đều là những chương-cú bí mật lưu
xuất ra từ Diệu tâm.
Phù trần căn của Tàng
thức là như vậy, là ở nơi tướng bạch hào. Còn Tịnh-sắc-căn thì
sao?.....Dĩ nhiên rằng tịnh-sắc-căn của Tàng thức chỉ có thể
là Chân thức, là Vô chất tánh cảnh, là Diệu tâm. Vì ngoài ra, chẳng
còn gì khác nữa…
Đó là về CĂN
của Tàng Thức. Còn TRẦN và THỨC thì sao?
TRẦN thì tức
là cái Tướng-phần vi tế của Tàng thức, gồm nhiều hữu chất tánh cảnh
hơn là vô chất tánh cảnh, mà trên cái đà xoay vần phân ly Tàng thức đã
làm phát hiện nên.
Còn THỨC tức
là cái khả năng trực-giác thâm mật, dễ dàng thể nhập làm một, nối
liền giữa Kiến phấn sáng láng và Tướng phần kém sáng láng của Tàng
thức.
Đại để THỨC
ẤM là như vậy.
b) – Nhịp điệu sinh
hoạt TƯƠNG SANH TƯƠNG DUYÊN giữa 5 ẤM là như thế nào?
Trong 5 ấm
này, dĩ nhiên Tàng thức hay Thức-ấm là quan trọng nhất, ví
như đại địa hay biển lớn, làm mọc lên 1 thân cây hay 1 cọng bèo…Hành-ấm
là gốc cây. Tưởng -ấm là thân cây. Còn Thọ-ấm hay Sắc-ấm ví như các
cành cây cùng hoa lá.
Năm thứ lớp
đó sanh hoạt nhịp nhàng, tương-sanh-tương-duyên, cái nọ bồi dưỡng cho
cái kia…Các dữ kiện nhận thức gặt hái được, hoặc là các mầm nghiệp
lành dữ tạo dựng nên bởi 4 ấm trước, đều rớt vào Thức-ấm, huân tập thành
những chủng-tử, chờ đợi cơ-duyên chín mùi, rồi lại hiện hành nổi
lên bồi dưỡng cho Hành-ấm. Và Hành-ấm lại dùng sức nghiệp
đó, để phụt lên những tia-chớp-nháng bồi dưỡng cho 3 ấm kia…Cứ như thế
mà xoay vần miên viễn, cho đến khi kẻ hành giả quyết
tâm lên đường, muốn lọt vào Tàng thức và trở về Tâm.
c)-CHIẾU KIẾN NGŨ
UẨN GIAI KHÔNG, ĐỘ NHẤT THIẾT KHỔ ÁCH.
Câu trên đây là của
bài Bát nhã Tâm kinh, nói bởi Đức Quán Thế Âm, mà các Phật tử đều
thuộc nằm lòng…Câu ấy mô tả con đường trở về của kẻ hành
giả, hay là của con cá Tích lội ngược dòng Vô minh để trở về nguồn.
Cá tích vốn xương nhỏ, nghiệp nhẹ, lại có 2 chiếc cánh ( 2 cánh này là Trí
tuệ Bát nhã vô ngã như huyễn và Tâm Đại bi bình đẵng),
nên có thể lội ngược dòng vô minh, vượt qua 5 màn sương mù
ngăn cách (là 5 ấm hay 5 uẩn), tiêu trừ hết mọi mầm mống phiền
não, mọi vô minh vi tế, vượt qua mọi khổ ách và chứng
nhập Diệu tâm.
Con đường trở
về này là con đường CHIẾU KIẾN, con đường CHIẾU SOI,
dùng cái Tâm thức mầu nhiệm và trong sáng để quán
chiếu, để chiếu soi, thấy rõ ràng 5 uẩn đều là Không cả.
Tâm thức của mỗi
chung sanh đều có kha năng kỳ diệu đó,là CHIẾU SOI,và TỰ CHIẾU
SOI…Một tấm gương thì có thể chiếu soi được, nhưng không thẻ tự-chiếu-soi.Trái
lại tâm thức ccos thể tự chiếu soi ngoại sắc, rồi tự chiếu soi nôi-sắc
tức là sắc thân mình, rồi tự chiếu soi những cảm giác cùng tâm
tưởng của mình, tự chiếu soi cái Thức đại của mình,tự chiếu soi Kiến-đại tức
là cái Thấy … để lần lần niệm-niệm-Ly ,tự rũ bõ những lớp thô-kệch ây tương
tự như 1 icon bướm thoát xác ..rồi lại bặt cả cái tâm niệm chiếu
soi ấy đểbước llwwn Một-bờ-mé…Dó là lịch trình biện chứng của sự
quán chiếu Bát nhã.
Nhưng ở
chương 2,chung ta đã nhận định rằng: nguyên nhân của sự Khởi
vọng,của sanh-tử trôi lăn,của sự đi xuống lạc vào mê-đồ-ảo-phố của
cái Nhiều …là do cái dngj tâm muốn CHIẾU SOI, muốn tự chiếu soi. Như anh chàng
Diễn nhã ra đứng trước tấm gương để muốn chiếu soi và tự chiếu soi vậy.
Rồi đến đây,
thì Ngài Quán Thế Âm lại dạy chúng ta rằng: phải chiếu
kiến ngũ uẩn, tức là chiếu soi và tự chiếu soi để trở về cái Một.
Như vậy
thì ra thế nào?...Cả 2 đường đều là Chiếu soi và tự- chiếu- soi cả.Vậy 2
đường chiếu soi đó có gì là khác nhau không?
Xin đáp rằng:
tuy cũng là 1 tấm thức ấy nó chiếu soi, nhưng lối chiếu soi có khác biệt,tuy chỉ
sai lệch nhau có ½ hào ly.
Như lối chiếu
soi của chàng Diễn nhã là lối chiếu soi có dụng-tâm chấp trước,có cầu mong,muốn
kiếm một cái gì, muốn thấy 1 cái gì, muốn bán víu vào 1 cái gì, muốn trụ vào 1
cái gì…và không hiểu hoặc quên rằng tất cả những gì mình chiếu soi thây chỉ là
những ảnh tượng LÓE lên, hay tạo dựng nên bởi Tàng thức hay Diệu
tâm của chính mình…Do đó, nên chuyển cai minh thành hư-minh, ngày càng mê
mờ lạc nẻo, ngày càng ngĩ rằng các vật là có , là tường còn, là có ngã
làm kiên cố thêm 2 tấm lăng kính chấp Ngã chấp Pháp.Không
biết rằng tất cả những thứ đó đều chỉ là huyễn-tượng tạo dựng nên bởi những vọng
tình cùng vọng tưởng cử chính mình mà thôi cho nên, khi đứng trước
gương, và thấy hiện ra 1 hình ảnh người,chàng Diễn nhã
không hiểu rằng cảnh giới ấy là chính mình ,do tàng thức của
mình làm lóe lên.Mà lại ngĩ rằng đó là một người khác,hoàn toàn khác biệt
với mình.Rồi lại khởi tâm yêu hay get cái hình bóng đó v.v..Nên ngày
càng mê mờ lạc nẻo.
Còn như lối
chiếu soi của con ca tích lội ngược dòng thì lại khác…Vẫn chiếu soi đấy, vẫn liễu
tri rành rẽ đấy, nhưng không hề móng-niệm chấp trước,không khởi 1mảy-mún
tâm mong cầu ,không muốn kiếm một cái gì, không trụ vào một cái gì, không khởi
1 ly vọng tình vọng tưởng ..., vì hiểu rõ rằng tất cả
vật cũng cảnh giới của Pháp giới này đều chỉ là ảnh-tượng
huyễn khởi, lóe lên Tùy theo mức độ nghiệp lực, và đều được dệt
nên bởi Những tia-chớp-nháng vụt lên từ nơi Chân không Diệu Tâm mà
thôi …Chiếu soi như vậy hoài hoài,hàng sát na,hàng giờ,hàng ngày,hàng
tháng,hàng năm…thì cái hư-minh ngày càng chuyển thành Minh thành Diệu, màn
sương mù nào cũng lần tiêu tan, mê-đồ-ảo-phố naò cũng tiêu dung, và tấm
lăng kính nào cũng mòn mỏi không thể làm léo lên nhũng ảo-ảnh nửa.Cũng như
chàng Diễn nhã,khi đứng trước gương, mà biết ngay rằng gương đó là 1 tấm lăng
kính có thể làm lóe lên 1 hình bóng cuả chính mình,thì đâu đến nỗi phát cuồng bỏ
chạy và trôi-lăn khắp phố phường?!?
Bởi thế
nên Duy tâm sở hiện và Lý Như-huyễn mới Có tầm mức tối quan trọng …Nếu
quan chiếu mà không nương theo chân lý đó thì chưa thể tới chỗ tuyệt
vời được.
Vậy thì ngài Quan
thế âm dạy chúng ta CHIẾU KIẾN Như vậy.
Trước hết là
quán ngoại sắc ,tức là những cảnh vật bên ngoài…Thấy rõ rằng sự vật chỉ là
do vô lượng nhânduyên hội-tụ ,là niệm-niệm vô thường sanh
diệt,là chỉđược dệt nên bởi vô lượng những tia-chớp-nháng phụt lên từ
biển chân-không do sức hành của nghệp-lực,là những khu vực tối tăm(zones
d’ombre) trong cái màn Huyễn-hiện của quang minh ,là những cố vọng
Tưởng, là những nét vẽ sâu-đậm của bàn tay của Diệu-Tâm…là vô tự tách,là
như-huyễn,là một màn sương mù,là1 một đám mây vân cẩu,là một
ảo bào ảnh,là trong sắc nàoCũng có hư-không cả cũng như trng pháp nào cũng
có Niết bàn cả.Và sở dĩ Vật hay lưu ngại mình, chỉ là
vì từ vô Lượng kiếp, mình đã luôn luôn khởi tâm phân biệt chấp
Trước,coi nó la co thật và khởi tâm vui buồn hoặc sợ hãi Vì
nó…Rồi thấy rõ ràng Sắc với Không vốn không 2,Tôí Và Sáng cúng như vậy
Mê và Ngộ cũng vậy,chỉ là 1 trò ẩn-hiện-hiện-ẩn mà thôi.
Rồi quán nội
sắc tức là thân căn cũng đại để như vậy.
Quán như thế
lâu rồi được thuần thục, thì căn và cảnh không phối ngẫu nữa, thấy mình gần như
không có thân, rut cái Thấy vào trong, lìa được sắc-không, phá được Sắc-ấm,
vượt được KIẾP TRƯỢC. thấy tâm thức tiêu diêu tự tại, như
con chim sổ lồng…
Rồi thì quán
chiếu đến Tưởng-ấm, tức cái màn sương mù nó thường làm lóe lên
những cảm thọ hư-minh huyền hoặc, khiến cho cái chân-kiến của Tâm
nhãn bị lệch lạc…Phá được Thọ-ấm là vượt được KIẾN TRƯỢC.
Rồi thì quán
chiếu đến Tưởng-ấm, tới Hành-ấm…Phá được những màn sương ù này,
tức là vượt được PHIỀN NÃO TRƯỢC và CHÚNG SANH TRƯỢC.
Trong kinh
Kim cang cũng dạy tương tự như vậy. Tức là phải quán chiếu để Lìa
Tướng, Vọng tình, Tưởng và Kiến…Tướng và tình là thuộc về sắc-ấm và thọ-ấm,
còn tưởng và kiến là thuộc tưởng-ấm và hành-ấm…
Rồi vào đến Tàng
thức, để quán chiếu chuyển cái màn sương mù hư vô vi
tế cuối củng này thành TOÀN CHÂN, vượt MẠNG TRƯỢC, chứng nhập Diệu
tâm, được quả Diệu giác Vô thượng, được thân Kim cang bất
hoại, được Thân-không-thân, có thọ mạng vô-lượng của ngài Vô Lượng
Thọ và của Chư Như lai.
Nhưng theo lời
kinh, thì càng lên cao bao nhiêu chông gai càng đầy rẩy, và ma
chướng càng vi tế và mãnh liệt bấy nhiêu. Sức chiêu dụ cám
dỗ (tentation) của những ý-ma dễ khiến cho kẻ hành-nhân lạc nẻo và
mê-mờ tánh Bồ đề, quên mất con đường tiến lên chỗ Tột-bờ-mé…Giai
đoạn này cũng là chặng đường hay vấp ngã hoặc thối thất hoặc dậm chân
tại chỗ của hành Nhị thừa và ngoại đạo đã được nói đến
trong Kinh Lăng Nghiêm.
Nên tới chặng
đường này, tuyệt đối phải cầu đến SỨC GIA TRÌ. Hoặc là Thần-lực
gia-trì, hoặc là Pháp-lực-gia-trì, hoặc là Pháp-lực gia trì…Nếu không có sự gia
trì, thì khó có thể gột nổi mấy phẩm vô-minh vi tế cuối cùng. Một bậc Đẳng
giác Bồ tát vẫn cần phải gần Phật mới có thể gột nổi phẩm
vô-minh vi tế cuối cùng được.
Và cũng bởi
thế, nên trong kinh Pháp Hoa, mấy phẩm cuối cùng đã được dành để tri
ân kẻ hành giả về sự tối cần thiết của sự gia trì…Và
trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật cũng dặn đi dặn lại rằng người tu
tập pháp môn Như-huyễn tam ma đề, nếu không trì chú Đại
Phật Đảnh thì khó có thể thoát khỏi ma chướng, và 10
phương Như Lai cũng đều phải nương vào thần chú đó mới đắc
đạo quả Vô thượng.
Đó là con
đường chiếu-kiến nói ra bởi Đức Quán Thế Âm, và cũng là con đường Như-huyễn tam
ma đề của Kinh Lăng Nghiêm…Và 1 khi đã Chiếu-kiến-ngũ-uẩn-giai-không thì sẽ
độ-thoát-nhứt-thiết-khổ-ách. Là vì sao?
Là vì tất cả ngoại
duyên và pháp giới này chỉ là sự lóe lên của Tướng phần, là
sự chuyển hiện của Tướng-phần, chuyển hiện TƯƠNG ƯNG với những chủng
tử nghiệp-ực hiện hành NỞ ra. Là vì không có cái gì là Ngẫu-nhiên
cả…và 1 khi vọng thức đã tiêu dung, nghiệp đã tiêu dung, thì tất cả ngoại
duyên cũng đều phải chuyển-hiện tương ưng. Và không có 1 khổ ách nào,
một kiếp tai nào, 1 bụi trần nào có thể bám vào người của
hành giả…Cũng như trong kinh Duy ma, những hoa trời rải xuống chỉ bám dính
vào áo ngài Xá Lợi Phất cùng các bậc Thanh văn, mà không hề bám
dính vào áo của Thiên nữ cùng Đại Bồ Tát. Là vì các bậc này đã gột
sạch hết mọi vọng thức phân biệt chấp trước cùng
vô-minh vi tế rồi….
Comments
Post a Comment